Băng đọc
Lời tựa
Trong lịch sử, Kinh Trang Nghiêm Hạnh Phúc Cực Lạc này đã được Đức Phật thuyết giảng nhiều lần và được ghi chép lại bằng Phạn ngữ, với nhiều phiên bản khác nhau. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Phật giáo Na-ga-ju-na tại Nê-pal đã tiến hành khảo cổ và đang lưu giữ các bản kinh Phạn văn này. Đồng thời, thông qua Dự án số hóa Kinh điển Phật giáo Sanskrit, các bản kinh này đã được phổ biến trực tuyến, với hai phiên bản, bản ngắn và bản đầy đủ, đều đồng một tên là su-khā-va-tī-vyū-haḥ.
Bản đầy đủ của Kinh Cực Lạc Trang Nghiêm đã từng được nhiều vị Đại sư phiên dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, như: Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, được Pháp sư Khương Tăng Khải dịch tại Thiên Trúc vào đời Tào Ngụy; Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, được Đại sư Chi Lâu Ca Sấm dịch tại nước Nguyệt Chi vào thời Hậu Hán; và Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, được Đại sư Pháp Hiền dịch vào thời nhà Tống. Mỗi bản dịch này đều mang những khác biệt nhất định, tùy theo góc nhìn và phương pháp của từng dịch giả.
Hiện nay, bản kinh tiếng Hán đang được lưu hành rộng rãi tại các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, cũng như tại các quốc gia có Phật tử tu theo hệ phái Tịnh Độ Tông, là phiên bản "Kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác" được cư sĩ Hạ Liên Cư tại Trung Quốc, biên tập và chỉnh lý, bằng cách so sánh và đối chiếu các phiên bản dịch tiếng Hán trước đó để tạo ra một bản hoàn chỉnh và thống nhất. Bản này sau đó đã được Hoà thượng Thích Đức Niệm dịch sang tiếng Việt và hiện đang được phổ biến rộng rãi trong các tự viện theo Tịnh Độ tại Việt Nam.
Cho đến nay, chưa có công trình nào dịch Kinh Trang Nghiêm Hạnh Phúc Cực Lạc trực tiếp từ nguyên bản tiếng Phạn sang tiếng Việt. Hiện tại, Quang Đăng đã thực hiện việc dịch bản Kinh này sang tiếng Việt, đồng thời giữ nguyên văn phong và cấu trúc ngữ pháp của tiếng Phạn, với hy vọng mang đến cho quý Phật tử một góc nhìn sâu sắc hơn về phương pháp tu tập Tịnh Độ, như Đức Phật đã hướng dẫn trong bản kinh nguyên gốc tiếng Phạn.
Quang Đăng nguyện đem toàn bộ công đức dịch Kinh Trang Nghiêm Hạnh Phúc Cực Lạc này, cùng với công đức thực hành Tự tánh trí tuệ toàn giác của mình, và toàn bộ công đức gieo trồng căn lành của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai, nguyện hồi hướng cho bà Ngoại là Trần Thị Tư, sinh năm Giáp Tuất (1933), năm nay 91 tuổi, được thân thể khoẻ mạnh, tật bệnh tiêu trừ, thân tâm hạnh phúc an lạc, có thể sống hoàn toàn với Tự tánh trí tuệ toàn giác của mình, tuổi thọ và căn lành đều được tăng trưởng, biết được cách trang nghiêm hạnh phúc cực lạc cho chính mình. Và khi xả bỏ báo thân này, cầu mong Ngoại được đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát đón Ngoại vãng sanh về Thế giới Cực Lạc Sukhāvatī.
Quang Đăng cũng nguyện đem toàn bộ công đức dịch Kinh này, cùng với công đức thực hành tâm Chánh Đẳng Giác của mình, và toàn bộ công đức gieo trồng căn lành của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai, nguyện hồi hướng cho Mẹ là Trần Ngọc Phụng, sinh năm Kỷ Hợi (1959), và toàn thể những người thân, cậu dì và gia đình của họ, đều được thân thể khoẻ mạnh, tật bệnh tiêu trừ, thân tâm hạnh phúc an lạc, có thể sống hoàn toàn với Tự tánh trí tuệ toàn giác của mình, tuổi thọ và căn lành đều được tăng trưởng, biết được cách trang nghiêm hạnh phúc cực lạc cho chính mình. Và khi xả bỏ báo thân này, cầu mong Mẹ và mọi người đều được đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát đón Mẹ và mọi người vãng sanh về Thế giới Cực Lạc Sukhāvatī.
Quang Đăng cũng thành tâm cầu mong những ai có duyên đọc và nghe được quyển Kinh này, đều có thể biết được cách trang nghiêm hạnh phúc cực lạc cho chính mình, có thể sống hoàn toàn với Tự tánh trí tuệ toàn giác của chính mình trong đời sống hiện tại. Khi xả bỏ báo thân này, cầu mong mọi người đều được đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát đón mọi người vãng sanh về Thế giới Cực Lạc Sukhāvatī.
Quang Đăng cũng thành tâm nguyện khắp pháp giới chúng sanh, những loài bay trên hư không, đi trên đất, bơi trong nước, những ai đang sống trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và toàn thể chư thiên và loài người, đều có thể biết được cách trang nghiêm hạnh phúc cực lạc cho chính mình, căn lành tăng trưởng, có thể sống hoàn toàn với Tự tánh trí tuệ toàn giác của mình, đều cùng sanh về Thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, và trong một đời đều sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngày 18/8/2024, ngày rằm Vu Lan 15/7 năm Giáp Thìn, mùa Thu, tại Tallinn, Estonia.
Quang Đăng kính ghi.
Kinh Trang Nghiêm Hạnh Phúc Cực Lạc
TS. Trần Quang Đăng dịch từ Sanskrit sang Việt văn
Dịch xong Mùa Thu, ngày 18/08/2024 tại Tallinn, Estonia
Kính thỉnh tự tánh của chính mình, là quy mạng tam bảo. Kính thỉnh tự tánh của chính mình, là quy mạng tất cả các đức Phật và Bồ Tát, là quy mạng mười phương, tận cùng các phương, vô lượng vô biên các thế giới, tất cả các đức Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Độc Giác Phật trong quá khứ, hiện tại, và tương lai; là quy mạng tự tánh ánh sáng vô lượng A-mi-tā-bhā của chính mình; là tự mình quy mạng vô lượng vô biên công đức thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu nơi chính mình.
1. Như vậy tôi nghe: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành Vương Xá, trên núi Linh Thứu, cùng đại chúng Tỷ Kheo gồm 32.000 người, tất cả đều là những vị A-la-hán, đã hết phiền não, lậu hoặc đã dứt, tâm được giải thoát hoàn toàn bởi chánh trí, tâm thanh tịnh, đã cắt đứt mọi trói buộc của luân hồi, đã đạt mục đích, đã đạt được điều cao nhất, tâm được giải thoát hoàn toàn, trí tuệ được giải thoát hoàn toàn, là đại long tượng, được sáu thần thông, đã làm chủ, thiền định tám giải thoát, đã đạt được sức mạnh, là các Trưởng Lão Thanh Văn danh tiếng ai cũng biết đến, như là: A Nhã Kiều Trần Như, Mã Tinh, Bāṣ-pa, Ma-hā-nā-ma, Bhad-ra-ji-tā, Ya-śô-đê-va, Vi-ma-la, Su-bā-hu, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Gà Da Ca Diếp, Ca Diếp Đồng Tử, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Thi La, Ma Ha Ca Tỳ La, Ma Ha Thuần Đà, A Nậu Lâu Đà, Nan-đi-ka, Kam-pi-la, Tu Bồ Đề, Ly Bà Đa, Kha-đi-ra-va-ni-ka, Bạc Câu La, Soā-ga-ta, A-mô-gha-rā-ja, Pā-rā-ya-ṇi-ka, Pat-ka, Cul-la-pat-ka, Nan-đa, Rā-hu-la, và Trưởng lão Ā-nan-đa. Đây đều là những vị Trưởng lão, hàng Đại Thanh Văn được nhiều người biết đến, chỉ ngoại trừ Trưởng lão Ā-nan-đa đang còn ở Bậc Hữu Học, người đang học những việc cần phải làm thêm. Bồ Tát Di Lặc là người dẫn đầu đông đảo các vị Đại Bồ Tát.
2. Lúc bấy giờ, Trưởng lão Ā-nan-đa đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp thượng y lên một bên vai, gối phải quỳ xuống đất, hướng về đức Thế Tôn, chắp tay và cúi đầu đảnh lễ, rồi nói lời này với đức Thế Tôn: Các giác quan của Đức Thế Tôn chói sáng, màu da tinh khiết, màu sắc khuôn mặt sáng rỡ và ánh sáng vàng rực. Lấy một ví dụ, như khu rừng mùa thu trắng sáng tinh khiết, sáng rỡ và ánh sáng vàng rực. Cũng như vậy, các giác quan của Đức Thế Tôn chói sáng, màu sắc khuôn mặt tinh khiết, sáng rỡ và ánh sáng vàng rực. Lấy một ví dụ khác, thưa Thế Tôn, giống như thỏi vàng Jām-bū-na-đa được tinh luyện khéo léo bởi thợ kim hoàn hoặc học trò thợ kim hoàn, được đưa ra khỏi miệng lò, hoàn toàn hoàn hảo, sau đó được đặt lên tấm vải trắng, rất tinh khiết, sáng rỡ và ánh sáng vàng rực. Cũng như vậy, các giác quan của Đức Thế Tôn chói sáng, màu sắc khuôn mặt tinh khiết, sáng rỡ và ánh sáng vàng rực. Thưa Thế Tôn, trước đây con chưa từng thấy các giác quan của Như Lai chói sáng, màu sắc khuôn mặt tinh khiết, sáng rỡ và ánh sáng vàng rực như vậy. Thật sự hôm nay, đức Thế Tôn ở trong trạng thái của một vị Phật toàn giác, ở trong trạng thái của Bậc Chiến Thắng, ở trong trạng thái của Tánh trí tuệ toàn tri, ở trong trạng thái của đại long tượng, thật sự hôm nay, Như Lai ở trong trạng thái, nhớ lại quá khứ, hiện tại, và tương lai của các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã hỏi điều này với Trưởng lão Ā-nan-đa: Lành thay, lành thay, này Ā-nan-đa. Đây là do chư thiên báo cho ông biết, hay là có đức Phật Thế Tôn nào nói, hay là do ông tự biết điều này thông qua suy nghĩ hiện tại của ông?
Khi được hỏi như vậy, Trưởng lão Ā-nan-đa đã nói điều này với Đức Thế Tôn: Không phải do chư thiên báo cho con biết, cũng không phải do có đức Phật Thế Tôn nào nói. Là do sự hiểu biết thông qua suy nghĩ tự thân, con biết rằng hôm nay đức Như Lai ở trong trạng thái của một vị Phật toàn giác, ở trong trạng thái của Bậc Chiến Thắng, ở trong trạng thái của Tánh trí tuệ toàn tri, thật sự hôm nay đức Như Lai ở trong trạng thái nhớ lại quá khứ, hiện tại, và tương lai của các đức Phật Thế Tôn.
Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói điều này với Trưởng lão Ā-nan-đa: Lành thay, lành thay, này Ā-nan-đa. Quả thật hiểu biết của ông cao cả, sự xem xét tốt đẹp, sự nhận thức tốt lành. Là ông, này Ā-nan-đa, đã tiến hành vì lợi ích cho nhiều người, vì hạnh phúc cho nhiều người, vì thương xót thế gian, vì lợi ích, vì điều tốt, vì hạnh phúc cho nhóm người lớn, chư thiên và loài người, rằng ông nên hỏi điều này về Như Lai. Này Ā-nan-đa, ông cũng nên hỏi về các đức Phật, về các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Cái thấy bằng trí tuệ của Như Lai là vô lượng vô biên, trí tuệ của Như Lai không bị huỷ hoại. Lý do tại sao? Này Ā-nan-đa, bởi vì cái thấy bằng trí tuệ của Như Lai là không bị nhân duyên cản trở chướng ngại. Với trí tuệ này, nếu muốn, này Ā-nan-đa, Như Lai có thể trú trong chỉ một bữa ăn, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc trăm triệu tỷ tỷ kiếp, từ đó còn vượt hơn nữa, các giác quan của Như Lai cũng không bị hủy hoại, màu sắc khuôn mặt không thay đổi, màu da cũng không bị hủy hoại. Lý do tại sao? Bởi vì, này Ā-nan-đa, Như Lai đã đạt được Bờ Bên Kia trong trạng thái thiền định sa-mā-đi.
Này Ā-nan-đa, sự xuất hiện của một vị Phật Chánh Đẳng Giác trong thế gian, là hiếm có. Lấy một ví dụ, giống như sự xuất hiện của hoa cây sung U-đum-ba-ra trong thế gian là hiếm có. Cũng như vậy, này Ā-nan-đa, sự xuất hiện của Như Lai, mong muốn vì lợi ích, mong muốn vì điều tốt, có lòng thương xót, và đã thực hành lòng từ bi lớn, là hiếm có. Thêm vào đó, này Ā-nan-đa, đó là uy lực của Như Lai, rằng ông nên nghĩ, nên hỏi điều này về Như Lai, vì lợi ích của các bậc thầy trong tất cả các thế gian, vì chúng sinh trong thế gian, vì các chúng sanh tỉnh thức, và vì các Đại Bồ-tát. Với điều đó, này Ā-nan-đa, hãy tốt đẹp lắng nghe và kỹ lưỡng chú tâm, ta sẽ nói với ông.
Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Trưởng lão Ā-nan-đa lắng nghe từ đức Thế Tôn.
3. Đức Thế Tôn đã nói điều này với Ā-nan-đa: Thuở xưa, này Ā-nan-đa, trong quá khứ, cách đây vô lượng vô biên, vô số a-tăng-kỳ kiếp, còn hơn vô số kiếp đó, còn rộng lớn hơn vô số kiếp đó, trong một khoảng thời gian không thể đếm được, không thể tưởng tượng được, vào thời đó, có đức Phật hiệu Nhiên Đăng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian. Sau thời đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, này Ā-nan-đa, xa hơn nữa, có đức Phật hiệu là Vinh Quang Như Lai. Sau thời đức Phật đó, xa hơn nữa, có đức Phật hiệu là Quang Tạng Như Lai. Sau thời đức Phật đó, xa hơn nữa, có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Hương Như Lai. Sau thời đức Phật đó, xa hơn nữa, có đức Phật hiệu là Tu Di Kiếp Như Lai. Như vậy, lần lượt có các đức Phật ra đời, hiệu là Chiên Đàn Như Lai, Tịnh Diện Như Lai, Không Ô Nhiễm Như Lai, Tịnh Quang Như Lai, Long Thắng Như Lai, Mặt Trời Mọc Như Lai, Sơn Vương Âm Như Lai, Tu Di Đảnh Như Lai, Kim Quang Như Lai, Nhật Quang Như Lai, Lưu Ly Quang Như Lai, Phạm Âm Như Lai, Nguyệt Thắng Như Lai, Nhạc Cụ Âm Như Lai, Hoa Quang Trang Nghiêm Giải Thoát Như Lai, Đức Đảnh Như Lai, Hải Tối Thắng Toàn Giác Du Hý Trí Tuệ Như Lai, Tối Thắng Quang Như Lai, Đại Hương Vương Phóng Quang Như Lai, Thanh Tịnh Bất Ô Nhiễm Âm Thanh Như Lai, Đỉnh Anh Hùng Như Lai, Chinh Phục Chiến Trường Như Lai, Đại Trí Tuệ Trì Công Đức Như Lai, Nhật Nguyệt Khúc Như Lai, Lưu Ly Phóng Quang Như Lai, Trí Tuệ Tâm Khai Hoa Hưng Toàn Giác Như Lai, Thông Tuệ Khai Hoa Vương Trung Hoa Lâm Puṣ-pā-va-tī Như Lai, Hoa Tạng Như Lai, Thuỷ Nguyệt Như Lai, Diệt Tối Ám Vô Minh Như Lai, Thế Gian Vương Như Lai, Ô Giải Thoát Thổi Bay Phiền Não Như Lai, Tis-sa Như Lai, Tán Thán Pháp Tuệ Vương Như Lai, Sư Tử Hải Dũng Tán Thán Vương Như Lai, Hải Tu Di Nguyệt Như Lai, Phạm Âm Thanh Tán Thán Như Lai, Hoa Sinh Như Lai, Đắc Quân Như Lai, Nguyệt Quang Tụ Như Lai, Nguyệt Quang Như Lai, Tịnh Nhãn Như Lai, Sơn Vương Âm Tôn Như Lai, Hoa Quang Như Lai, Hoa Vũ Như Lai, Bảo Nguyệt Như Lai, Liên Hoa Quả Trang Nghiêm Như Lai, Chiên Đàn Hương Như Lai, Bảo Quang Minh Như Lai, Ni-mi Như Lai, Đại Trang Nghiêm Như Lai, Hoàn Toàn Không Tỳ Vết Như Lai, Phạm Âm Như Lai, Vũ Thất Bảo Như Lai, Đại Công Đức Trì Như Lai, Bóng Tán Lá Cây Chiên Đàn Ta-mā-la Lớn Như Lai, Hoa Trí Như Lai, Tiêu Diệt Vô Minh Như Lai, Kê-sa-rī Như Lai, Ô Giải Thoát Như Lai, Kim Quang Tạng Như Lai, Lưu Ly Tạng Như Lai, Đại Tướng Như Lai, Pháp Tướng Như Lai, Bảo Tướng Như Lai, Bảo Đức Như Lai, Tộc Vương Như Lai, Nhân Vương Như Lai, Bi Mẫn Như Lai, Thế Gian Mỹ Diệu Như Lai, Phạm Đảnh Như Lai, Pháp Đảnh Như Lai, Sư Tử Như Lai, Sư Tử Tuệ Như Lai. Sau thời đức Phật Sư Tử Tuệ, này Ā-nan-đa, xa hơn nữa, có đức Như Lai tên là Thế Gian Thiên Vương Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện trên thế gian. Này Ā-nan-đa, trong pháp hội của đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác thuở đó, có Tỷ kheo tên là Pháp Tạng, cực kỳ nhớ giỏi, trí tuệ nhanh nhẹn, sáng suốt, cực kỳ tinh tấn, và quyết tâm.
4. Lúc bấy giờ, này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, đi lên đối diện trước đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, ngay lúc đó đã dùng những bài kệ này khen rằng:
1. Đức Phật có ánh sáng vô lượng,
Vô biên chẳng gì so sánh được,
Chẳng có một ánh sáng nào khác,
Có thể chiếu sáng ở nơi đây,
Ánh sáng mặt trời, ngọc Ma-ni,
Ánh sáng mặt trăng và núi chúa,
Tất cả ánh sáng toàn thế giới,
Chẳng thể sánh bằng ánh sáng Phật.
2. Hình dáng vô lượng từ chơn tánh,
Giọng nói đức Phật vô lượng âm,
Giới hạnh cũng như các thiền định,
Trí Tuệ Bát Nhã và tinh tấn,
Dù khắp tất cả các thế gian,
Chẳng một ai sánh bằng đức Phật.
3. Rất sâu và rộng, rất vi tế,
Chẳng còn suy nghĩ và tưởng tượng,
Là pháp này, toàn giác tối thượng,
Pháp toàn giác giống như biển cả,
Do đây Đạo sư chẳng tỳ vết,
Không nhiễm ô, không lỗi chẳng lành,
Từ rất lâu đã được tịch diệt.
4. Sức mạnh đức Phật là vô lượng,
Ánh sáng vô biên chiếu các phương,
Là vua, chúa tể trong loài người,
Là thầy của pháp cũng Đức Phật,
Giải thoát tất cả các chúng sanh,
Khỏi khổ đau sanh già bệnh chết.
5. Bố thí, thiền chỉ śa-ma-tha,
Trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn,
Thiền định, chánh định sa-mā-đi,
Tất cả điều đó là tối thượng,
Những hạnh này, con nay nguyện được,
Sẽ thành Phật, độ khắp chúng sanh.
6. Số đức Phật hàng trăm triệu tỷ,
Như số cát vô tận sông Hằng,
Khắp tất cả con đều cúng dường,
Bậc tìm kiếm giác ngộ tỉnh thức,
Là đức Phật tối thượng vô song.
7. Mỗi hạt cát có trong sông Hằng,
Được ví hình thành một thế giới,
Trong sông Hằng có bao nhiêu cát,
Có bấy nhiêu thế giới hình thành,
Đem nghiền tất cả thế giới đó,
Loại cực nhỏ thành bụi lượng tử,
Mỗi một bụi ví một thế giới,
Trong vô số các thế giới đó,
Con sẽ phát ánh sáng trùm khắp,
Con thực hành tinh tấn siêng năng,
Như hôm nay chẳng có khác biệt.
8. Vĩ đại tối thượng cõi Phật con,
Trong các tối thượng là bậc nhất,
Tốt nhất ở trong cõi ô uế,
Đối với niềm vui cảnh Niết Bàn,
Tịch tịnh thanh khiết chẳng gì sánh,
Con sẽ thanh tịnh bằng tánh không.
9. Con sẽ tập hợp các chúng sanh,
Khắp mọi nơi trong mười phương giới,
Khi họ đến, sẽ được hạnh phúc,
Với niềm vui nhanh chóng tự nhiên,
Con sẽ thành đức Phật Toàn Giác,
Đầy đủ viên mãn các sức mạnh,
Con học tập siêng năng chẳng dối,
Con nay xin phát chí nguyện lớn.
10. Kính lễ Bậc Thông Suốt Mười Phương,
Không hạn lượng, hằng biết tâm con,
Cũng như Phật, con không lay chuyển,
Luôn sống với sức mạnh bất thoái,
Bổn nguyện này con sẽ chẳng đổi.
5. Sau khi, này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, đi đối diện hướng về đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, nói những bài kệ khen ngợi này xong, ông ấy đã nói lời này: Con muốn đạt được chánh đẳng chánh giác vô thượng. Con phát tâm và hồi hướng nhiều lần về chánh đẳng chánh giác vô thượng. Kính mong đức Thế Tôn dạy cho con pháp như vậy, để con có thể nhanh chóng đạt được chánh đẳng chánh giác vô thượng. Con sẽ trở thành Như Lai không ai sánh bằng trong thế gian. Kính mong đức Thế Tôn mô tả các hình tướng để con có thể tiếp nhận cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật của con một cách hoàn hảo.
Sau khi được nói như vậy, này Ā-nan-đa, đức Thế Tôn Thế Gian Thiên Vương Như Lai nói với Tỷ Kheo đó rằng: Này Tỷ Kheo, chính ông hãy tự tiếp nhận cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật của mình.
Ông ấy nói: Con không thể làm được, kính mong đức Thế Tôn nói về sự trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của các cõi Phật khác, khi nghe được, con sẽ hoàn thiện mọi khía cạnh cho cõi Phật của mình.
Ngay sau đó, này Ā-nan-đa, đức Thế Tôn Thế Gian Thiên Vương Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, biết ý định của Tỷ Kheo đó, đã giảng dạy đầy đủ về sự trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của vô số trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, với hình tướng, với chỉ dẫn, và giải thích cách mong muốn lợi ích, từ bi, cách để bảo tồn cõi Phật, cách tạo ra lòng từ bi lớn trong chúng sanh. Pháp đó được đức Thế Tôn Như Lai đó nói đầy đủ trong bốn mươi kiếp.
6. Này Ā-nan-đa, sau khi Tỷ Kheo Pháp Tạng đã được tiếp nhận tất cả sự trang nghiêm hoàn hảo của 81.000 triệu tỷ tỷ cõi Phật vào một cõi Phật xong. Ông ấy cúi đầu lễ sát đôi chân của Đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai và đi nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi rời khỏi chỗ của đức Thế Tôn đó. Sau đó, trong năm kiếp, ông ấy đã tiếp nhận cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật của mình còn hoàn hảo hơn, còn rộng lớn hơn, còn cao quý hơn và chưa từng được truyền bá hay xuất hiện trước đây trong mười phương thế giới. Ông ấy đã lập nguyện còn rộng lớn hơn nữa.
7. Này Ā-nan-đa, Sau khi Tỷ Kheo Pháp Tạng tiếp nhận tất cả sự trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của 81.000 triệu tỷ tỷ cõi Phật mà Đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai đã nói xong. Ông ấy đến gần đức Thế Tôn đó, cúi đầu lễ sát đôi chân đức Phật và nói rằng: Thưa Thế Tôn, con đã tiếp nhận xong cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật của mình.
Sau khi được nói như vậy, này Ā-nan-đa, đức Thế Tôn Thế Gian Thiên Vương Như Lai đã nói với Tỷ Kheo đó rằng: Này Tỷ Kheo, ông hãy nói ra, Như Lai sẽ khen ngợi ông. Đây đúng là lúc để Tỷ Kheo ông làm vui lòng hội chúng, làm họ sinh ra hoan hỷ, hãy phát tiếng gầm sư tử, mà khi nghe, các chúng sanh tỉnh thức, các đại Bồ Tát bây giờ và trong tương lai sẽ có thể tiếp nhận những cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu và học được cách phát nguyện để có được cõi Phật như vậy cho họ.
8. Ngay lúc đó, này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng đã nói lời này với đức Thế Tôn: Thưa Thế Tôn, xin hãy nghe những nguyện đặc biệt này của con, để khi con thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cõi Phật của con sẽ đầy đủ sự trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, không còn có thể suy nghĩ tưởng tượng được:
1. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự hiện diện của địa ngục, quỷ đói, súc sanh, và A Tu La, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
2. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh sinh ra và sau đó lại rơi vào địa ngục, quỷ đói, súc sanh, và A Tu La, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
3. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự chúng sanh sinh ra có nhiều màu sắc, tất cả đều chưa có màu vàng, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
4. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn nhận thấy được sự khác biệt giữa chư thiên và loài người, chỉ ngoại trừ khác nhau về tên gọi, theo cách nói, và đếm số lượng một cách tương đối giữa chư thiên và loài người, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
5. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa hoàn toàn đạt được sức mạnh thần thông, ít nhất là trong khoảnh khắc của một tâm niệm, có thể qua đến vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
6. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa hoàn toàn nhớ được các đời sống quá khứ của mình, ít nhất là nhớ lại vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ kiếp, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
7. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh với con mắt chưa hoàn toàn đạt được thần thông, ít nhất là thấy được vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ thế giới, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
8. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh với lỗ tai chưa hoàn toàn đạt được thần thông, ít nhất là nghe được pháp cùng một lúc của vô lượng hàng trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
9. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa hoàn toàn thông suốt tâm của người khác, ít nhất là hiểu được tâm hành của tất cả chúng sanh ở trong vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
10. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh còn phát sinh suy nghĩ chiếm hữu, dù ngay cả trên chính cơ thể của mình, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
11. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa chắc chắn chơn chánh đạt được hoàn toàn tịch tịnh lớn (Đại Bát Niết Bàn), thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
12. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự sau khi con đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà có người đếm được số lượng Thanh Văn, cho dù tất cả chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới (một vũ trụ với 3000 tỷ thiên hà) đều trở thành Độc Giác Phật, trải qua vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ kiếp, mà có thể đếm được, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
13. Thưa Thế Tôn, nếu cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự sau khi con đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà ánh sáng của con không đạt đúng mức, ít nhất là chiếu sáng được vô lượng hàng trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
14. Thưa Thế Tôn, nếu chừng nào vẫn còn có sự sau khi con đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở cõi Phật của con, tuổi thọ của chúng sanh vẫn còn có định mức, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
15. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, chừng nào vẫn còn có sự thọ mạng của con vẫn còn có định mức, ít nhất là đếm được vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ kiếp, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
16. Thưa thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh bị gọi là bất thiện, không có căn lành, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
17. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, trong vô lượng vô biên các thế giới chư Phật, có vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một đức Phật không khen ngợi tên gọi của con, không nói màu sắc vẻ đẹp của con, không bày tỏ tuyên dương, không tuyên bố nói ra tên gọi của con, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
18. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh ở các thế giới phương khác phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nghe được tên con, trái tim họ vui vẻ, lòng họ hoan hỷ nhớ đến con, đến khi họ chết, mà con chưa thể hiện diện trước mặt họ cùng với Tăng đoàn Tỷ Kheo của con vây quanh để tâm họ không bị rối loạn, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
19. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, trong vô lượng vô số các cõi Phật, chúng sanh nghe được tên gọi của con, phát tâm muốn sinh về cõi Phật của con, hồi hướng căn lành, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh không sinh được về cõi Phật của con, ít nhất là sau mười lần phát tâm, ngoại trừ chúng sanh phạm 5 tội nghịch, và những người ngăn cản, che chắn, gây chướng ngại, và từ bỏ diệu pháp này, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
20. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa đạt được đây là đời sống cuối cùng không còn bị tái sanh nữa, chắc chắn sẽ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngoại trừ những người có những nguyện đặc biệt, là chúng sanh tỉnh thức, là đại Bồ Tát được trang bị đầy đủ phương tiện lớn, là những người đã giác ngộ vì lợi ích cho tất cả các thế giới, là những người tận tụy gắn bó với tất cả thế giới, là những người tận tụy gắn bó làm cho tất cả thế giới được hoàn toàn tịch tịnh, là những người muốn thực hành đạo Bồ Tát, là những người muốn tái sinh vào các đời sống với số lượng nhiều như cát sông Hằng để đặt nền tảng cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là những người hướng đến hành vi cao hơn, thực hành các Hạnh Phổ Hiền, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
21. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, các Bồ Tát sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát trong một lần chưa thể đi đến được một cõi Phật, chưa thể đi đến được một trăm cõi Phật, chưa thể đi đến được một ngàn cõi Phật, chưa thể đi đến được một trăm ngàn cõi Phật, chưa thể đi đến được mười triệu cõi Phật, chưa thể đi đến được vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, và chưa gặp được tất cả các nguồn hạnh phúc cực lạc nhờ sức mạnh của Phật toàn giác, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
22. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, Bồ Tát mong muốn gieo trồng căn lành bằng nhiều hình thức như dùng vàng, bạc, ngọc quý ma-ni, ngọc trai, ngọc lục bảo, ngọc xà cừ, san hô, pha lê, ngọc mã não, hồng ngọc, ngọc trắng, ngọc đỏ và các loại ngọc khác, hoặc dùng bất kỳ loại bảo vật nào; hoặc dùng các loại hương, hoa, vòng hoa, hương liệu, đèn dầu, hương bột, y phục, dù, lọng, cờ, phướn, đèn các loại; hoặc dùng tất cả các điệu múa, bài hát, nhạc cụ; hoặc dùng thức ăn; chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một lần phát khởi tâm mong muốn mà những thứ đó không đồng thời hiện ra, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
23. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa thể nói được pháp thoại bằng Tánh trí tuệ toàn tri, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
24. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, có Bồ Tát phát khởi tâm như vầy: “Chúng tôi đứng ở nơi đây, hướng về vô lượng vô biên thế giới phương khác, tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường vô lượng vô số các đức Phật ở trong các cõi Phật đó, bằng y phục, bát ăn, thức ăn, chỗ nằm, chỗ ngồi, thuốc chữa bệnh, hoa, hương, đèn, hương liệu, vòng hoa, phấn, vải, dù, lọng, cờ, phướn, các điệu múa, bài hát, nhạc cụ, hoặc mưa các bảo vật”, chừng nào vẫn còn có sự lúc Bồ Tát phát khởi tâm, mà chỉ một đức Phật Thế Tôn ở phương khác không nhận được đồ cúng dường của Bồ Tát ấy, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
25. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, Bồ Tát sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát chưa đạt được sức mạnh tự tánh, có định kiên cố chắc chắn như kim cương nā-rā-ya-ṇa, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
26. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh vẫn còn chưa nhận thấy được giới hạn, phạm vi của màu sắc, ít nhất là bằng thiên nhãn, thấy được màu sắc như vậy, thấy được sự trang nghiêm như vậy, thấy được đa dạng màu sắc trong các cõi Phật như vậy, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
27. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát vẫn còn rất ít căn lành, ít nhất là nhận thấy được cây Bồ Đề cao 100 yojana (1 yojana là 13 km) với màu sắc rực rỡ, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
28. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh sau khi được dạy, được học tập, và thực hành theo, mà chưa đạt được trí tuệ hoàn hảo, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
29. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, từ khắp mọi nơi trong vô lượng vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các cõi Phật phương khác, chừng nào vẫn còn có sự tồn tại một nơi mà chưa thấy được cõi Phật của con một cách rõ ràng, giống như hình ảnh gương mặt ở trong gương sáng được lau chùi, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
30. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, từ mặt đất cho đến bầu trời, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một lọ hương thơm trong số hàng trăm ngàn lọ hương thơm khác nhau được làm từ tất cả các loại bảo vật, xứng đáng để cúng dường cho Như Lai và Bồ Tát, mà chưa thường tỏa hương vượt quá phạm vi của trời và người, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
31. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự trời chưa thường mưa xuống các loại hoa quý khác nhau, các mây nhạc cụ chưa thường phát ra âm thanh êm ái dễ chịu, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
32. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, có vô lượng, vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng chúng sanh ở trong cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh chưa được hạnh phúc cực lạc vượt qua cả trời và người, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
33. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, từ khắp mọi nơi trong vô lượng vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các cõi Phật phương khác, có các chúng sanh tỉnh thức, các đại Bồ Tát khi nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà chưa phát được lòng thiện, chưa đạt được chú hộ trì đā-ra-ṇī cho đến khi ngồi đạo tràng giác ngộ, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
34. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, từ khắp mọi nơi trong vô lượng vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các cõi Phật phương khác, có người nữ khi nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một người nữ khi nghe tên gọi của con, mà vẫn còn suy nghĩ lầm lạc, chưa phát sinh được tâm tỉnh thức, chưa nhàm chán trạng thái nữ giới, chưa mong muốn vượt qua dòng giống nữ giới, và vẫn còn tái sinh vào trạng thái nữ giới lần thứ hai, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
35. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, từ khắp mọi nơi trong mười phương có vô lượng vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các cõi Phật phương khác, có Bồ Tát trong đó nghe được tên gọi của con và đảnh lễ tôn kính với 5 chi phần trên thân thể (đầu, hai tay, và hai chân) chạm đất, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát sau khi đảnh lễ tôn kính danh hiệu của con, mà chưa được trời và thế gian tôn kính khi thực hành hạnh Bồ Tát, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
36. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát phải tự làm y áo, phải tự giặt, phơi, khâu, nhuộm y áo, lúc mới sinh ra khi được Như Lai hướng dẫn, chỉ một lần phát tâm mà chưa có y áo quý che phủ trên thân, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
37. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh sinh ra mà chưa đạt được hạnh phúc cực lạc, không còn bị thiêu đốt giống như Tỷ Kheo A La Hán lúc nhập vào Thiền thứ ba, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
38. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, các Bồ Tát sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát lúc trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật riêng của mình, mà các cây báu khác nhau không được sinh ra theo hình dáng mà họ mong muốn, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
39. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, có Bồ Tát ở cõi Phật phương khác khi nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà vẫn còn bị thiếu hụt các căn và sức mạnh, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
40. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật phương khác, có Bồ Tát nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà chưa đạt được chánh định sa-mā-đi rõ ràng, chưa thể trú được vào chánh định, trong một khoảnh khắc Sát-na mà chưa thấy được vô lượng, vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các đức Phật Thế Tôn, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
41. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật phương khác, nếu có chúng sanh nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh khi nghe tên gọi của con, mà chưa phát sinh căn lành, chúng sanh đó chưa sinh vào được dòng dõi cao quý cho đến khi hoàn toàn giác ngộ, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
42. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật phương khác, có Bồ Tát nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà chưa phát sinh căn lành, chưa đạt được sự nhất tâm trong khi hành các hạnh Bồ Tát với lòng vui vẻ hoan hỷ dễ chịu cho đến khi hoàn toàn giác ngộ, thì chừng đó con chưa đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
43. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở thế giới phương khác, có Bồ Tát nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà chưa được hoàn toàn dự vào tự tánh thanh tịnh, chưa đạt được chánh định sa-mā-đi, trong một khoảnh khắc Sát-na, mà Bồ Tát đó chưa thể thấy được vô lượng, vô biên, vô số, không thể đếm được, không thể tưởng tượng được, không thể so sánh được là số lượng các đức Phật Thế Tôn để cung kính tôn trọng, và chánh định sa-mā-đi của họ còn bị gián đoạn giữa chừng cho đến khi hoàn toàn giác ngộ, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
44. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, chúng sanh sinh ra, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một chúng sanh mong muốn nghe giảng pháp với nhiều thể loại, mà chưa thể phát tâm để nghe được, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
45. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, ở cõi Phật của con, có các Bồ Tát tại cõi Phật phương khác, nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà vẫn còn thoái chuyển khỏi chánh đẳng chánh giác vô thượng, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
46. Thưa Thế Tôn, nếu sau khi con đạt được giác ngộ tỉnh thức, trong các cõi Phật của các Bậc Đạo Sư Toàn Giác phương khác, có Bồ Tát nghe được tên gọi của con, chừng nào vẫn còn có sự dù chỉ một Bồ Tát khi nghe tên gọi của con, mà họ chưa được đệ nhất, đệ nhị, và đệ tam nhẫn nhục, họ vẫn còn thoái chuyển khỏi Phật, Pháp, Tăng, thì chừng đó con chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
9. Lúc bấy giờ, này Ā-nan-đa, sau khi Tỷ Kheo Pháp Tạng nói ra những lời nguyện này, ngay lúc đó, đã nói lên những bài kệ này:
11. Nếu con chưa thành tựu lời nguyện,
Đủ các thể loại đặc biệt này,
Thì con sẽ không thành chánh giác,
Không trở thành chúng sanh cao quý,
Khi con chưa có được mười lực,
Không đáng nhận lễ vật tối thượng.
12. Nếu cõi con còn chưa có được,
Viên mãn đầy đủ các nguyện này,
Số tài sản vô tận Bậc Thánh,
Với chúng sanh chịu khổ địa ngục,
Chưa làm họ an lạc hạnh phúc,
Thì con nguyện sẽ chưa thành Phật,
Chưa làm vua quý nhất thế gian.
13. Nếu lúc con đến ngồi đạo tràng,
Để xác chứng giác ngộ tỉnh thức,
Mà danh hiệu con chưa lan khắp,
Nhanh chóng rộng lớn cả mười phương,
Lan đến khắp vô tận cõi Phật,
Thì con nguyện sẽ chưa thành Phật,
Bậc sức mạnh lớn, chủ thế giới.
14. Nếu như con còn hưởng dục lạc,
Với trí nhớ thiếu sự tiến bộ,
Con chưa sánh bằng với người tốt,
Chưa thể đạt được sự bình yên,
Khi con chưa giác ngộ bình đẳng,
Con sẽ không thành Bậc sức mạnh,
Chưa làm thầy dẫn dắt thế gian.
15. Ánh sáng con rộng lớn vô tận,
Không gì so sánh chiếu các phương,
Chiếu sáng tất cả các cõi Phật,
Làm dịu dục vọng, các mê lầm,
Con làm dịu tất cả lỗi lầm,
Con làm dịu lửa trong địa ngục.
16. Con tạo ra mắt lớn xinh đẹp,
Con xua tan bóng tối chúng sanh,
Con xoá bỏ mắt không tốt đẹp,
Con dắt họ thẳng lên thiên giới,
Với ánh sáng chói sáng vô tận.
17. Rất thanh tịnh là ánh sáng con,
Hơn ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
Khắp bầu trời chiếu sáng quang minh,
Ánh sáng chư thiên chẳng sánh kịp,
Con sẽ thành chúa tể loài người,
Chính do con làm nghiệp thiện tịnh.
18. Con sẽ làm một nam tử tốt,
Là kho báu của người khổ đau,
Dù cho khắp tất cả mười phương,
Không nơi nào có hạnh như vậy,
Với trăm ngàn công đức thiện tịnh,
Khi con đầy đủ hết tất cả,
Con sẽ rống tiếng rống sư tử,
Rống tiếng rống của Phật toàn giác.
19. Lòng con nay tự sinh tôn kính,
Các đức Phật quá khứ thuở xưa,
Các hạnh nguyện và sự tu hành,
Các Ngài ấy thực hành vô lượng,
Đã đạt được hoàn hảo tốt nhất,
Nay con cũng tích tập trí tuệ,
Hoàn thành đủ sức con nguyện lớn,
Là tinh tuý thật nghĩa chúng sanh.
20. Cũng giống như các Phật Thế Tôn,
Với thấy biết không bị ràng buộc,
Không giới hạn trong các điều kiện,
Con cũng sẽ là chúa loài người,
Sẽ xứng đáng tương đương đức Phật,
Sẽ là Bậc thấy biết vô thượng,
Sẽ thành người lãnh đạo nhân loại.
21. Nếu như con thành công lời nguyện,
Sẽ đạt được giác ngộ toàn giác,
Nguyện khắp cả cõi này rung chuyển,
Sáng chư thiên, ngàn cõi mưa hoa.
22. Khi lời nguyện nói ra vừa dứt,
Đất rung chuyển, ngàn cõi mưa hoa,
Thiên nhạc hàng trăm loại đồng tấu,
Trời mưa tuôn hương bột diễn ra,
Đây báo hiệu Phật sẽ xuất thế.
10. Bằng cách này, này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng do thành tựu các lời nguyện như vậy, nên đã trở thành một vị chúng sanh tỉnh thức, một vị đại Bồ Tát. Này Ā-nan-đa, sẽ có rất ít Bồ Tát nào có thể hoàn toàn viên mãn các lời nguyện như vậy. Những lời nguyện như vậy cũng rất ít khi xuất hiện trên thế gian, dù là nhỏ nhất, nhưng không phải hoàn toàn không có.
Lúc bấy giờ, này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng đứng trước đức Phật Thế Gian Thiên Vương Như Lai, và trước mặt toàn thể thế giới chúng sanh, với ma giới, với phạm thiên giới, với các sa môn, bà la môn, cùng toàn thể dân chúng, với chư thiên, loài người và A Tu La, ông ấy đã nói ra những lời nguyện đặc biệt như vậy, an trú và thực hành đúng như lời nguyện, và những lời nguyện của ông ấy đều đã trở thành chơn thật.
Này Ā-nan-đa, ông ấy đã mang lại sự thanh tịnh của cõi Phật, sự vĩ đại của cõi Phật, sự rộng lớn của cõi Phật như vậy, bằng cách thực hành vô lượng, vô biên, vô số, không thể đo lường được, không thể tưởng tượng được, không thể so sánh được các hạnh Bồ Tát trải qua khoảng thời gian không thể đếm được, không thể diễn tả được, không có giới hạn, vô số, hàng triệu, hàng trăm triệu, hàng ngàn triệu tỷ tỷ năm. Suốt quãng thời gian đó, ông ấy chẳng bao giờ có suy nghĩ về tham dục, nóng giận hay bạo lực, kể cả các ý tưởng về tham dục, nóng giận hay bạo lực cũng chẳng bao giờ sanh khởi nơi ông ấy. Ông ấy cũng chẳng bao giờ phát sinh suy nghĩ về hình sắc, âm thanh, hương vị, mùi vị và xúc giác.
Ông ấy thực sự đã trở thành một người trẻ đẹp, thiện lương, tốt lành, sống an lạc, hạnh phúc, khoan dung, may mắn, được nuôi dưỡng tốt, ít ham muốn, dễ hài lòng, sống tách biệt, không độc ác, không mê lầm, không nghi ngờ, thẳng thắn, không giả dối, không gian dối, tâm tính mềm mại, lời nói dễ nghe, luôn luôn tận tâm, tìm kiếm pháp trắng, giao phó trọng trách tốt đẹp, vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên đã tạo ra nguyện lớn, luôn tôn trọng Phật, Pháp, Tăng, luôn tôn trọng thầy tốt và bạn tốt.
Đối với các hạnh Bồ Tát, ông ấy luôn chuẩn bị trước, thường ngay thẳng, tính tình mềm mại, không lừa dối, không bị thổi bay, có đầy đủ sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, thường tiên phong thâu thập tất cả pháp lành, thực hành các hạnh không, vô tướng, vô nguyện và vô tác, không cấu tạo để bảo vệ lời nói của mình. Ông ấy đã thực hành các hạnh Bồ Tát như vậy. Những lời nói và hành động gây hại cho chính mình và người khác, ông ấy từ bỏ. Những lời nói và hành động đem lại lợi ích và hạnh phúc cho chính mình và người khác, ông ấy đã sử dụng. Ông ấy nhận thức rõ ràng như vậy.
Khi ông ấy đi vào làng, đi vào thành phố, thị trấn, khu vực, quốc gia, thủ đô, ông ấy không bao giờ bị lôi kéo bởi hình sắc, âm thanh, hương vị, mùi vị, xúc giác và các pháp, cũng không bao giờ bị các pháp ấy cản trở. Trong các hạnh của Bồ Tát, ông ấy tự mình thực hành hoàn thiện Bố Thí Bờ Bên Kia, ông ấy thực sự đã làm cho tự mình thấm nhuần như vậy. Ông ấy cũng tự mình thực hành hoàn thiện Giữ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Trí Tuệ Bờ Bên Kia, ông ấy thực sự cũng đã làm cho tự mình thấm nhuần như vậy.
Đó là các cách mà ông ấy đã làm cho các căn lành của mình tăng trưởng.
Nhờ các công đức mà ông ấy đã trang bị cho mình, đời nào ông ấy sinh ra ở đâu, thì nơi đó có nhiều kho báu số lượng đến 100 triệu tỷ tỷ xuất hiện trên trái đất đó, để ông ấy thực hành các hạnh Bồ Tát. Ông ấy đã an trí cho vô lượng vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ chúng sanh đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đây là những hành động không dễ gì làm được. Sau khi những chúng sanh đó trở thành vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn, ông ấy tôn kính, tôn trọng, kính trọng, thờ phụng, cúng dường y phục, bình bát, thức ăn, giường nằm, chỗ ngồi, người có bệnh thì ông cho thuốc men đối với tất cả các đức Phật Thế Tôn đó. Những ai tiếp xúc, xúc chạm hay sống với ông, ông ấy đều khiến cho tất cả được an lạc hạnh phúc, kể cả trưởng giả, gia chủ, đại thần, chiến binh, bà la môn, các nhà lãnh đạo, các gia tộc, dòng họ và nhiều loài chúng sanh khác. Những hành động đó không dễ gì làm được.
Nhờ sự an trí của ông ấy, trong những người đó có người trở thành nhiều vị vua của các quốc gia, lục địa tại Jam-bu-đuy-pa trên trái đất; có người trở thành vua Chuyển luân thánh vương Chắc-ra-va-ti, có người trở thành Hộ thế Thiên vương Lô-ka-pā-la, có người trở thành Thiên đế Śak-ra chúa tể chư thiên cõi trời, có người trở thành vua trời Su-ya-ma, có người trở thành vua trời Su-tu-ṣi-ta, có người trở thành vua trời Su-nia-mi-ta, có người trở thành vua trời Su-va-śa-va-tin, có người trở thành vua của các loài trời, có người trở thành đại phạm thiên vương Ma-hā-brah-ma. Còn có vô lượng vô biên chúng sanh sau khi đã thành các đức Phật Thế Tôn, ông ấy đều tôn kính, kính trọng, tôn thờ, coi họ là thầy, đều cúng dường y phục, bát ăn, thức ăn, giường ngủ, ghế ngồi, đối với người bệnh, ông ấy cúng dường dược phẩm, và cung cấp tất cả các thứ cần thiết khác. Ông ấy còn cung cấp tất cả sự an lạc tiện lợi như phương tiện đi lại, đường sá, cầu đò, xe cộ, đồ dùng êm ái, ấm cúng, dụng cụ gia đình tiện dụng, chỗ ở cư trú, nhà cửa, phòng xá, trường học, giảng đường, công viên, vườn cây, khu vui chơi giải trí hạnh phúc an lạc cho tất cả các chúng sanh, kể cả họ là thương gia, gia chủ, quan lại, chiến binh, bà la môn, những người giàu có quyền quý, và các gia đình. Không dễ gì có thể dùng lời nói, hành động để diễn tả được giới hạn của ông ấy.
Ông ấy an trí cho rất nhiều chúng sanh như vậy trở thành nhiều vị vua của các quốc gia, trên lục địa tại Jam-bu-đuy-pa trên trái đất, vua Chuyển luân thánh vương, Hộ thế Thiên vương, Thiên đế Śak-ra chúa tể chư thiên cõi trời, vua trời Su-ya-ma, vua trời Su-tu-ṣi-ta, vua trời Su-nia-mi-ta, vua trời Su-va-śa-va-tin, vua của các loài trời, đại phạm thiên Ma-hā-brah-ma. Những chúng sanh như vậy, họ đã trở thành vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn, ông ấy đều tôn kính, kính trọng, tôn thờ, coi họ là thầy, tôn vinh họ với mục đích chuyển bánh xe pháp. Không thể nào có thể dùng lời nói, hành động để diễn tả được giới hạn mà ông ấy đã đạt đến.
Đó là cách ông ấy tích luỹ các công đức, căn lành, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho chính mình, khi ông ấy thực hành đạo Bồ Tát trải qua khoảng thời gian không thể đếm được, không thể đo lường được, không thể tưởng tượng được, vô lượng, vô biên, vô số, không thể diễn tả được, hàng trăm triệu tỷ tỷ đại kiếp.
Miệng của ông ấy phát ra mùi hương thơm ngát của gỗ đàn hương loại cực phẩm, từ mọi lỗ chân lông của ông ấy phát ra mùi hương hoa sen.
Đó là cách ông ấy làm cho tất cả thế giới đều trở nên đẹp đẽ, thanh nhã, đáng ngắm nhìn, vô cùng tốt lành, với nhiều màu sắc phong phú, cùng với nhiều hình tướng, dấu hiệu được trang nghiêm bằng chính tự tánh của ông ấy, nhờ đó mà xuất hiện tất cả các loại ngọc quý, trang sức, cũng xuất hiện tất cả các loại vải vóc, y phục, tất cả các loài hoa, hương liệu, mùi thơm, vòng hoa, hương đốt, dù, lọng, cờ, phướn, cờ hiệu; xuất hiện tất cả các loại âm nhạc; tất cả những thứ tốt lành đều xuất hiện từ lỗ chân lông, từ lòng bàn tay; cũng xuất hiện tất cả các loại thực phẩm, đồ ăn, thức uống, thức ăn cứng, thức ăn lỏng, và nước ép. Tất cả những thứ dùng để tiêu dùng, hưởng thụ như vậy đều xuất hiện trên lòng bàn tay. Đây chính là năng lực trang nghiêm của ông ấy.
Này Ā-nan-đa, Tỷ Kheo Pháp Tạng trước đây đã thực hành các hạnh Bồ Tát như vậy.
11. Khi được nói điều này, Trưởng lão Ā-nan-đa đã nói lời này với đức Thế Tôn: Thưa Thế Tôn, Tỷ Kheo Pháp Tạng đó hiện vẫn còn là một vị đại Bồ Tát, hay đã giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và đã nhập Niết Bàn, hay là chưa giác ngộ, hay là còn đang trên con đường giác ngộ, hay là đã giác ngộ và vẫn còn đang tồn tại, đang gìn giữ, đang duy trì, đang giảng dạy giáo pháp?
Đức Thế Tôn nói: Không phải, này Ā-nan-đa. Vị ấy không phải là đức Như Lai của quá khứ hay tương lai. Mà vị ấy là đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiện đang tồn tại, đang gìn giữ, đang duy trì, đang giảng dạy giáo pháp tại phương Tây, cách đây 100.000 triệu tỷ tỷ cõi Phật, tại thế giới có tên là Su-khā-va-ti (Cực Lạc), là đức Phật có tên là Amitābha (A Di Đà - Vô Lượng Quang) Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiện đang dẫn dắt vô số Bồ Tát vây quanh cùng với vô lượng vô biên các Thanh Văn tại cõi Phật có vô lượng công đức tốt đẹp.
12. Ánh sáng của đức Phật đó là vô lượng, không dễ gì có thể đo lường được. Ánh sáng đó có thể chiếu khắp đến 100 cõi Phật, 1000 cõi Phật, 100.000 cõi Phật, 10 triệu cõi Phật, 1 tỷ cõi Phật, 10 tỷ cõi Phật, 1000 tỷ cõi Phật, 100 triệu tỷ tỷ cõi Phật. Nói một cách tóm tắt, này Ā-nan-đa, có 100 triệu tỷ tỷ Hằng Hà Sa, là số lượng các cõi Phật ở hướng Đông, ánh sáng của đức Phật Amitābha Như Lai thường có thể chiếu sáng khắp tất cả các cõi đó. Như vậy, các hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, phương Trên, phương Dưới, mỗi một hướng có 100 triệu tỷ tỷ Hằng Hà Sa cõi Phật, ánh sáng của đức Phật Amitābha Như Lai thường có thể chiếu sáng khắp tất cả các cõi đó, chỉ ngoại trừ có các đức Phật Thế Tôn khác do nguyện lực quá khứ riêng của mình, nên có ánh sáng bao phủ một, hai, ba, bốn, năm, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi yojana, hoặc ánh sáng bao phủ 100 yojana, hoặc ánh sáng bao phủ 1000 yojana, hoặc ánh sáng bao phủ 100.000 yojana, hoặc ánh sáng bao phủ nhiều trăm triệu tỷ tỷ yojana, hoặc ánh sáng lan toả khắp một thế giới. Này Ā-nan-đa, không có một ví dụ nào có thể đo lường được ánh sáng của đức Phật Amitābha Như Lai.
Do đó, này Ā-nan-đa, theo ý nghĩa này, đức Phật ấy được gọi là Amitābha (Vô Lượng Quang), có ánh sáng vô lượng, ánh sáng không ngừng, ánh sáng không bị ngăn trở, ánh sáng rực rỡ, ánh sáng như ngọc Ma-ni cõi trời, ánh sáng không gì cản trở được, ánh sáng hoàng gia, ánh sáng dễ thương, ánh sáng vui tươi, ánh sáng gắn kết, ánh sáng thanh tịnh, ánh sáng bền vững, ánh sáng mạnh mẽ, ánh sáng không ai sánh kịp, ánh sáng vượt trội so với ánh sáng của chúa tể trong chúa tể của các vị vua, ánh sáng chiếu sáng hơn cả ánh sáng của mặt trăng và mặt trời, ánh sáng vượt trội hơn ánh sáng của các vị thần hộ thế thiên vương Lô-ka-pā-la, Thiên đế Śak-ra chúa tể chư thiên cõi trời, Phạm Thiên Brah-ma, các chư thiên ở cõi trời Tịnh Cư Śud-đā-vā-sa, chư thiên ở cõi trời Ma-hê-śva-ra, và tất cả các chư thiên cõi trời khác. Đây được gọi là ánh sáng tôn quý, tinh khiết, rộng lớn, mang lại niềm vui hạnh phúc an lạc cho thân thể, làm cho tâm trí phấn chấn, vì các loài trời, A Tu La, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Ga-Ru-Đa, Ma-Hô-Ra-Ga, Kin-Na-Ra, loài người và phi nhân, làm cho họ hân hoan và hạnh phúc; vì những người có thiện ý, chúng sinh có căn lành, mang lại niềm vui hạnh phúc to lớn cho những người có thiện chí, có căn lành ở trong vô số các cõi Phật phương khác.
Này Ā-nan-đa, Như Lai dù dành trọn vẹn hết một kiếp để nói về ánh sáng công đức của đức Phật Amitābha Như Lai, cũng không thể đạt đến giới hạn của ánh sáng công đức, cũng không thể nói được tận cùng của sự thông thái của đức Như Lai ấy. Lý do tại sao? Này Ā-nan-đa, bởi vì hai thứ này là không thể đo lường được, không thể tính toán được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được, là vô hạn. Sự vĩ đại của ánh sáng và công đức của đức Phật Amitābha Như Lai là tối thượng, trí tuệ và sự thông thái của đức Như Lai ấy là tối thượng.
13. Hơn nữa, này Ā-nan-đa, hội chúng Thanh Văn của đức Phật Amitābha Như Lai là không thể đo lường được, không dễ gì biết được giới hạn. Số lượng này là hàng chục triệu Thanh Văn, hàng tỷ Thanh Văn, hàng chục tỷ Thanh Văn, hàng ngàn tỷ Thanh Văn, lấy số lượng này đem nhân với một kaṃ-ka-rā-ṇi (104), lấy số lượng này đem nhân với một bim-ba-rā-ṇi (108), lấy số lượng này đem nhân với một na-yu-tā-ni (1016), lấy số lượng này đem nhân với một a-yu-tā-ni (1064), lấy số lượng này đem nhân với một vi-vā-hā (10128), lấy số lượng này đem nhân với một srô-tāṃ-si (10512), lấy số lượng này đem nhân với một ô-jāṃ-si (102048), cho đến không thể đo lường được, không thể đếm được, không thể tính toán được, không thể so sánh được, không thể suy nghĩ tưởng tượng được.
Lấy một ví dụ, này Ā-nan-đa, với thần lực của Tỷ Kheo Mục Kiền Liên, ông ấy có thể đếm được có bao nhiêu ngôi sao trong một đại thiên thế giới, trong những ngôi sao đó, có bao nhiêu hành tinh vây quanh, có bao nhiêu thành phố trong đó, ông ấy có thể đếm được chỉ trong một đêm. Những người có thần lực giống như ông Mục Kiền Liên ở trong hội chúng Thanh Văn cấp một của đức Phật Amitābha Như Lai đó, có thể đếm được số lượng là 100.000 triệu tỷ tỷ người. Con số này chỉ là một phần trăm, chỉ là một phần ngàn, chỉ là một phần trăm ngàn, thậm chí một phần rất nhỏ so với toàn thể hội chúng Thanh Văn cấp một, với số lượng là không thể đếm được.
Lấy một ví dụ, này Ā-nan-đa, đại dương này có chiều rộng 84.000 yojana, có một người lấy đỉnh một sợi tóc chẻ thành 100 phần, rồi dùng 1 phần trăm sợi tóc đó chấm lấy một giọt nước biển. Ông nghĩ sao, này Ā-nan-đa, ở đây cái nào là nhiều hơn, là giọt nước nằm trên đỉnh của một phần trăm sợi tóc, hay là khối lượng nước còn lại trong đại dương?
Ā-nan-đa đáp: Thưa Thế Tôn, ngay cả 1000 yojana cũng chỉ là một phần nhỏ của đại dương, huống chi là một giọt nước nằm trên đỉnh của một phần trăm sợi tóc.
Đức Thế Tôn nói: Ví dụ một giọt nước đó là số lượng Thanh Văn có thần lực giống như Tỷ Kheo Mục Kiền Liên ở trong hội chúng Thanh Văn cấp một, là 100.000 triệu tỷ tỷ người có thần lực giống với Tỷ Kheo Mục Kiền Liên, đem so với khối lượng nước còn lại trong đại dương là toàn thể hội chúng Thanh Văn cấp một đó, thì số lượng ấy chẳng thể nào đếm được. Nói chi đến hội chúng Thanh Văn cấp 2, cấp 3, v.v… Như thế, hội chúng Thanh Văn của đức Thế Tôn ấy là vô tận, không thể đếm được, với số lượng là vô biên.
14. Này Ā-nan-đa, thọ mạng của đức Phật Amitābha Như Lai là không có giới hạn, không dễ gì có thể đo lường được là 100 kiếp, 1000 kiếp, 100.000 kiếp, 10 triệu kiếp, 1 tỷ kiếp, 10 tỷ kiếp, 1000 tỷ kiếp, hay 100.000 triệu tỷ tỷ kiếp. Này Ā-nan-đa, thọ mạng của đức Phật đó là vô hạn, không có biên giới; vì vậy, đức Như Lai ấy còn được gọi là A-mi-tā-yus (Vô Lượng Thọ). Như tại thế giới này có sự tính đếm các kiếp, thì cũng vậy, hiện tại đã 10 kiếp trôi qua kể từ khi đức Phật Vô Lượng Thọ Như Lai thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
15. Lại nữa, này Ā-nan-đa, thế giới tên là Sukhāvatī (Cực Lạc) của đức Phật Amitābha Như Lai rất phát triển, phồn thịnh, an toàn, sung túc, đẹp đẽ, với đông đảo chư thiên và loài người. Ở trong thế giới đó, không có địa ngục, không có súc sanh, không có ngạ quỷ, không có thân A Tu La, không có ai sanh ra từ kiếp sống do các lỗi lầm, không có ai sanh ra từ các tội lỗi. Những bảo vật không tồn tại trong thế giới này, nhưng lại hiện hữu ở thế giới Cực Lạc.
16. Lại nữa, này Ā-nan-đa, thế giới Cực Lạc ấy, không khí lan tỏa hương thơm từ nhiều loại hương khác nhau, đầy đủ nhiều loại hoa và quả, được trang trí bởi các cây quý, là nơi tụ tập của nhiều loài chim do đức Như Lai ấy tạo ra với giọng hót hay.
Này Ā-nan-đa, ở đó có các cây quý với rất nhiều màu sắc, hàng trăm, hàng ngàn màu sắc, cây bằng vàng thì màu vàng, cây bằng bạc thì màu bạc, cây bằng lưu ly thì màu lưu ly, cây bằng pha lê thì màu pha lê, cây bằng ngọc trai thì màu ngọc trai, cây bằng ngọc đỏ thì màu ngọc đỏ, cây bằng đá quý thì màu đá quý.
Có cây pha lẫn hai bảo vật vàng và bạc; có cây pha lẫn ba bảo vật vàng, bạc, lưu ly; có cây pha lẫn bốn bảo vật vàng, bạc, lưu ly, pha lê; có cây pha lẫn năm bảo vật vàng, bạc, lưu ly, pha lê, ngọc trai; có cây pha lẫn sáu bảo vật vàng, bạc, lưu ly, pha lê, ngọc trai, ngọc đỏ; có cây pha lẫn đầy đủ bảy bảo vật vàng, bạc, lưu ly, pha lê, ngọc trai, ngọc đỏ và đá quý, phát ra ánh sáng nhiều màu tùy theo mức độ pha lẫn.
Ở đó, này Ā-nan-đa, có những cây bằng vàng, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng bạc.
Có những cây bằng bạc, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng lưu ly.
Có những cây bằng lưu ly, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng pha lê.
Có những cây bằng pha lê, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng ngọc trai.
Có những cây bằng ngọc trai, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng ngọc đỏ.
Có những cây bằng ngọc đỏ, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng đá quý.
Có những cây bằng đá quý, nhưng rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái bằng vàng.
Này Ā-nan-đa, có một số cây rễ bằng vàng, thân bằng bạc, cành bằng lưu ly, nhánh bằng pha lê, lá bằng ngọc trai, hoa bằng ngọc đỏ, trái bằng đá quý.
Có một số cây rễ bằng bạc, thân bằng lưu ly, cành bằng pha lê, nhánh bằng ngọc trai, lá bằng ngọc đỏ, hoa bằng đá quý, trái bằng vàng.
Có một số cây rễ bằng lưu ly, thân bằng pha lê, cành bằng ngọc trai, nhánh bằng ngọc đỏ, lá bằng đá quý, hoa bằng vàng, trái bằng bạc.
Có một số cây rễ bằng pha lê, thân bằng ngọc trai, cành bằng ngọc đỏ, nhánh bằng đá quý, lá bằng vàng, hoa bằng bạc, trái bằng lưu ly.
Có một số cây rễ bằng ngọc trai, thân bằng ngọc đỏ, cành bằng đá quý, nhánh bằng vàng, lá bằng bạc, hoa bằng lưu ly, trái bằng pha lê.
Có một số cây rễ bằng ngọc đỏ, thân bằng đá quý, cành bằng vàng, nhánh bằng bạc, lá bằng lưu ly, hoa bằng pha lê, trái bằng ngọc trai.
Có một số cây rễ bằng đá quý, thân bằng vàng, cành bằng bạc, nhánh bằng lưu ly, lá bằng pha lê, hoa bằng ngọc trai, trái bằng ngọc đỏ.
Có một số cây rễ bằng bảy báu, thân bằng bảy báu, cành bằng bảy báu, nhánh bằng bảy báu, lá bằng bảy báu, hoa bằng bảy báu, trái bằng bảy báu.
Này Ā-nan-đa, tất cả những cây này, rễ, thân, cành, nhánh, lá, hoa, trái khi chạm vào đều có xúc giác dễ chịu và có hương thơm. Khi có gió thổi qua, những cây này phát ra âm thanh du dương, dễ chịu, làm cho người nghe không bị đối nghịch, không bị khó chịu. Này Ā-nan-đa, những cây cối bằng bảy báu trải rộng khắp vùng đất của đức Phật đó. Còn có những cây chuối bằng vàng, những hàng cây cọ quý bằng bảy báu bao quanh, khắp nơi được bao phủ bằng lưới vàng.
Có các loài hoa sen quý che phủ khắp nơi. Có hoa sen kích thước nửa yojana, có hoa sen kích thước một yojana, có hoa sen kích thước hai, ba, bốn, năm yojana, có hoa sen kích thước đến mười yojana. Những hoa sen bảo vật đó phát ra ba mươi sáu triệu tỷ tỷ tia sáng chiếu sáng khắp mọi nơi. Từ mỗi tia sáng phát ra ba mươi sáu triệu tỷ tỷ đức Phật với thân hình màu vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, đi đến vô số thế giới phương Đông để giảng dạy Pháp cho chúng sanh; cũng như vậy, ở hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, phương dưới, phương trên, đi đến vô số thế giới khắp tất cả các phương, thấu suốt các thế giới, để giảng dạy Pháp cho chúng sanh.
17. Ở trong vùng đất của Đức Phật đó, tất cả đều không có hố đen, khắp mọi nơi đều là núi bảo vật, tất cả đều là núi Su-mê-ru, vua của các núi bao quanh các núi lớn. Vùng đất của Đức Phật đó khắp nơi đều bằng phẳng, đẹp đẽ, bằng phẳng như lòng bàn tay, đất được lát với nhiều loại bảo vật quý giá.
Khi được nói như vậy xong, Trưởng lão Ā-nan-đa đã hỏi đức Thế Tôn: Thưa Thế Tôn, ở cõi này, các chư thiên trời Bốn Đại Thiên Vương sống trên sườn núi Su-mê-ru, chư thiên trời Ba Mươi Ba sống trên đỉnh núi Su-mê-ru, ở cõi kia, các chư thiên đó sống ở đâu?
Đức Phật nói: Ông nghĩ sao, này Ā-nan-đa, ở cõi này có phải các chư thiên sống trên đỉnh núi chúa Su-mê-ru là chư thiên trời Yā-mā, trên nữa là chư thiên trời Tu-ṣi-tā, trên nữa là chư thiên trời Hoá Lạc Nia-mā-ṇa-ra-ta, trên nữa là chư thiên trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin, trên nữa chư thiên trời Phạm Chúng Brah-ma-kā, trên nữa là chư thiên trời Phạm Phụ Brah-ma-pu-ra, trên nữa là chư thiên trời Đại Phạm Thiên Ma-hā-brah-mā-ṇa, trên nữa là chư thiên trời A-ka-niṣ-ṭha không? Cũng như vậy, này Ā-nan-đa, ở cõi này chư thiên sống ở đâu, thì ở cõi kia, chư thiên cũng sống như vậy.
Ā-nan-đa nói: Thật không thể suy nghĩ tưởng tượng được, thưa Thế Tôn, là quả báo của các nghiệp sau khi các nghiệp được làm.
Đức Phật nói: Ông đã hiểu, này Ā-nan-đa. Không thể suy nghĩ tưởng tượng được là quả báo của các nghiệp sau khi các nghiệp được làm. Các nghiệp mà đức Phật Thế Tôn đã làm là không thể suy nghĩ tưởng tượng được. Sự uy nghiêm của các đức Phật, công đức của các đức Phật, trồng các căn lành nơi các chúng sanh của các đức Phật, công đức và sự vĩ đại của các đức Phật là không thể suy nghĩ tưởng tượng được.
Ā-nan-đa nói: Ở đây, thưa Thế Tôn, con không còn suy nghĩ, không còn nghi ngờ, không còn hoài nghi. Bằng các câu hỏi của con, thực sự đức Như Lai đã giải đáp, vì các chúng sanh đến trong hội này, đã diệt trừ sự mong muốn, nghi ngờ, hoài nghi của họ.
Đức Phật nói: Lành thay, này Ā-nan-đa. Đó là việc ông nên làm.
18. Này Ā-nan-đa, ở thế giới Cực Lạc, có nhiều con sông chảy trong thế giới đó. Có con sông lớn dài 1 yojana. Có con sông lớn dài hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi yojana. Chiều rộng mỗi con sông là 12 yojana. Các con sông đó chảy êm đềm, nước có nhiều mùi hương khác nhau, trên mặt sông có nhiều loại hoa lấp lánh ngọc quý, tiếng nước chảy vang lên nhiều âm thanh ngọt ngào. Này Ā-nan-đa, như bản hoà tấu âm nhạc cõi trời kết hợp với hàng triệu nhạc cụ được chơi bởi các nghệ sĩ lành nghề. Âm thanh tiếng nước phát ra từ những con sông lớn ấy dễ chịu như vậy, âm vang sâu lắng, không thể dùng suy nghĩ hiểu được, không thể dùng tưởng tượng biết được, không có lỗi, dễ chịu cho tai, chạm đến trái tim, đáng yêu, êm dịu, dễ chịu, không gây tổn thương, không gây trái ngược, làm các chúng sanh nghe được có thể cảm nhận được sự vô thường, sự tĩnh lặng, sự vô ngã khi các tiếng ấy chạm đến thính giác nơi lỗ tai của người nghe.
Lại nữa, này Ā-nan-đa, có nhiều hàng cây hương quý khác nhau trải dài dọc theo hai bên bờ sông, với các cành lá hoa khác nhau buông xuống. Ở đó, các chúng sanh đứng bên bờ sông trải nghiệm các trò chơi vui thú, thần thánh, đẹp đẽ, dễ chịu. Khi họ xuống nước trong sông, muốn nước sâu đến mắt cá chân, nước đến mắt cá chân thì dừng lại. Khi họ muốn nước sâu đến đầu gối, nước đến đầu gối thì dừng lại. Khi họ muốn nước sâu đến eo, sâu đến nách, nước đến eo, đến nách thì dừng lại. Khi họ muốn nước sâu đến lỗ tai, nước đến lỗ tai thì dừng lại, làm cho họ được niềm vui cõi trời. Nếu chúng sanh ở đó muốn nước lạnh, thì nước trở thành lạnh. Nếu muốn nước nóng, thì nước trở thành nóng. Nếu muốn nước mát mẻ, thì nước trở thành mát mẻ. Tại các con sông lớn đó, nước thực sự theo mong muốn.
Nước chảy trong các con sông đó có nhiều mùi hương từ các loại gỗ quý cõi trời như hương cây ta-mā-la, hương lá pa-tra, hương cây trầm ā-ga-ru, hương cây trầm đen kā-la, hương cây a-nu-sā-ri-ta, hương cây ga-ra, hương cây sā-ra, hương gỗ chiên đàn can-đa-na. Nhiều hương thơm quý như vậy hoà quyện trong nước. Trên mặt nước, phủ đầy các hoa thơm cõi trời như hoa sen xanh ut-pa-la, hoa sen pad-ma, hoa súng ku-mu-đa, hoa sen trắng puṇ-đa-rī-ka tỏa ra hương thơm tinh khiết.
Trên bãi bồi các con sông có nhiều loài chim như thiên nga, chim hạc, chim cò, chim ngan đỏ, chim vịt trời, chim vẹt, chim sáo, chim cuốc, chim mắt xanh, chim sẻ, chim công, chim bồ câu hót các tiếng dễ chịu. Những đàn chim đó được đức Như Lai tạo ra để tăng thêm cảnh đẹp thanh bình cho hai bên bờ sông. Dưới đáy sông không có bùn, mà rải cát bằng vàng. Các chúng sanh ở đó mong muốn thứ gì, thì những thứ mong muốn đó đều trở thành hiện thực. Này Ā-nan-đa, tiếng nước chảy dễ chịu đó vang khắp tất cả các thế giới chư Phật.
Nếu có chúng sanh đứng trên bờ sông mong muốn rằng: “Đừng để các âm thanh này đến thính giác của tôi”, thì ngay cả âm thanh cõi trời cũng không đến thính giác của họ. Người đó mong muốn nghe âm thanh như thế nào, thì sẽ nghe đúng âm thanh dễ chịu như thế ấy. Ví dụ như âm thanh của Phật, âm thanh của Pháp, âm thanh của Tăng, âm thanh của Bờ Bên Kia, âm thanh của các Địa, âm thanh của các Lực, âm thanh của Không Sợ Hãi, âm thanh Pháp đặc biệt của Phật, âm thanh của hiểu biết, âm thanh của trí tuệ, âm thanh của tánh không, âm thanh của vô tướng, âm thanh của vô sanh, âm thanh của không hướng đến, âm thanh của không hành tạo, âm thanh của không sinh ra, âm thanh của không hiện hữu, âm thanh của tịch diệt, âm thanh của yên tĩnh, âm thanh của rất yên tĩnh, âm thanh của hoàn toàn yên tĩnh, âm thanh của đại từ, âm thanh của đại bi, âm thanh của đại hỷ, âm thanh của đại xả, âm thanh của địa nhẫn nhục không sinh khởi pháp, âm thanh của chứng đắc. Khi nghe những âm thanh ấy, họ nhận được niềm vui hỷ lạc vĩ đại, kèm theo xả ly, ly dục, tĩnh lặng, kèm theo diệt, kèm theo pháp, kèm theo căn lành của sự hoàn toàn giác ngộ tỉnh thức.
Ở thế giới Cực Lạc đó, này Ā-nan-đa, hoàn toàn không có âm thanh bất thiện, hoàn toàn không có âm thanh chướng ngại, hoàn toàn không có âm thanh đọa vào cõi ác, hoàn toàn không có âm thanh khổ đau, thậm chí âm thanh của cảm thọ không khổ không vui cũng hoàn toàn không có. Các âm thanh khổ đau như vậy đều hoàn toàn không có. Bởi vì lý do này, này Ā-nan-đa, thế giới Su-khā-va-ti đó được gọi là Cực Lạc. Đây là nói ngắn gọn như vậy, nếu nói một cách chi tiết thì thậm chí, này Ā-nan-đa, dành trọn hết một kiếp để nói về các nguyên nhân cực lạc hạnh phúc của thế giới Cực Lạc Su-khā-va-ti, cũng không thể nói được tận cùng của các nguyên nhân cực lạc hạnh phúc.
19. Lại nữa, này Ā-nan-đa, ở trong thế giới Cực Lạc đó, các chúng sanh tái sinh về, tất cả đều có màu sắc, có sức mạnh, tầm vóc, quyền lực, khối công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, có đầy đủ các y phục, trang sức, vườn rừng, cung điện, lâu đài, và các hưởng thụ âm thanh, hương thơm, mùi vị và cảm giác như các chư thiên trong cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin. Không có chúng sanh nào trong thế giới Cực Lạc ăn thức ăn thô, nước trái cây và mật ong. Nhưng khi họ mong muốn thức ăn theo hình dạng nào, thì họ nhận được thức ăn theo hình dạng đó, và thân thể và tâm trí của họ được thỏa mãn mà không cần đưa thêm thứ gì vào cơ thể. Họ mong muốn các loại hương thơm như thế nào, thì thế giới của Đức Phật đó hoàn toàn được xông hương với các loại hương thơm thánh thiện như thế đó. Người đó muốn ngửi hương thơm nào, mùi hương của các hương thơm khác không xuất hiện. Những ai mong muốn hình dạng nào, ví dụ như vòng hoa, kem xoa bóp, áo cà sa, dù, cờ, phướn, nhạc cụ nào, thì những thứ đó đều xuất hiện rõ ràng ở thế giới của đức Phật ấy. Nếu họ mong muốn y phục nhiều màu sắc khác nhau, thì những y áo quý với hàng trăm ngàn màu sắc khác nhau xuất hiện theo chính xác những gì họ mong muốn. Khi họ mặc những y phục đó, ánh sáng từ y phục toả ra sáng khắp toàn bộ thế giới của đức Phật ấy.
Khi họ mong muốn trang sức như thế nào, ví dụ như trang sức cho đầu, trang sức cho tai, trang sức cho cổ, trang sức cho tay và chân, hay họ mong muốn mũ miện, khuyên tai, vòng đeo tay, dây chuyền cổ, vòng cổ, bông tai, nhẫn, dây chuyền vàng, thắt lưng, vòng xuyến vàng, lưới, lưới ngọc trai, lưới ngọc quý, lưới vàng ngọc quý, những trang sức khảm trăm ngàn ngọc quý, thì những trang sức đó đều hiện treo ở trên cây ở trong thế giới của đức Phật ấy. Họ tự lấy để trang trí cho bản thân mình.
Khi họ mong muốn hình dạng, màu sắc, chiều cao, kích thước của cung điện như thế nào, thì cung điện được trang trí bằng trăm ngàn cấu trúc ngọc quý, trải đầy hoa trời, với ghế hoa văn xuất hiện trước mặt họ. Theo ý tưởng của họ, trong cung điện được bao quanh bởi bảy ngàn thần tiên, xem người đó là người đứng đầu, cùng nhau cư trú, chơi đùa, tận hưởng, và chăm sóc cho người đó.
20. Lại nữa, ở trong thế giới đó, không có sự khác biệt giữa chư thiên và con người, ngoại trừ theo cách hiểu thông thường cho rằng đây là chư thiên và đây là con người, và chỉ với mục đích đếm biết số lượng. Lấy một ví dụ, này Ā-nan-đa, ở trước mặt vua Chuyển Luân Thánh Vương những người bình thường thấp kém, những người bình dân không thể tỏa sáng, không thể chiếu sáng, không thể chói rỡ, không thể trở nên thông thái, không thể sáng rực được. Cũng như vậy, trước mặt chư thiên trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin, Thiên đế śak-ra chúa tể chư thiên cõi trời, không thể tỏa sáng, không thể chiếu sáng, không thể sáng rực được. Các vườn rừng, lâu đài, y phục, trang sức, năng lực siêu nhiên hoặc phép lạ hoặc quyền uy mà người đó có được, này Ā-nan-đa, là do người đó hiểu biết pháp, nên được hưởng thụ pháp như vậy. Giống như chư thiên cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin, này Ā-nan-đa, con người ở trong thế giới Cực Lạc đó nên được thấy như vậy.
21. Lại này Ā-nan-đa, ở thế giới Cực Lạc, vào buổi sáng, khi gió thổi khắp bốn phương, thổi qua nhiều loài cây quý có nhiều cành với nhiều màu sắc đẹp mắt toả hương thơm thần thánh khác nhau, làm di chuyển, lung lay các tán lá cây làm rơi hàng trăm hoa quý với mùi thơm dễ chịu và đẹp mắt xuống dưới mặt đất. Hoa ở cõi Phật đó rơi dày với chiều cao bằng bảy lần người, trải thành thảm hoa trên mặt đất. Người ở đó dùng hai tay nhặt hoa trên đất, khéo léo kết thành vòng hoa, tràng hoa để trang trí làm đẹp cho mình. Thảm hoa dày bằng chiều cao bảy lần người ở thế giới Phật đó, là các loài hoa có mùi thơm và màu sắc khác nhau. Những loài hoa đó mềm mại, khi chạm vào cảm giác dễ chịu như lụa tơ tằm, khi đi đặt chân xuống thì thảm hoa lún xuống bốn ngón tay, khi nhấc chân lên thì bằng phẳng lại. Những hoa đã rụng ngày hôm trước, thì vào lúc sáng sớm ngày hôm sau đã hoàn toàn biến mất, làm cho cõi Phật đó thanh tịnh trong sạch, không bị ô nhiễm. Lại nữa, xung quanh bốn phía gió thổi những hoa cũ đi, làm những hoa mới rải đầy mặt đất. Cũng như vậy, vào buổi trưa, buổi chiều, buổi tối, canh đầu, canh giữa, và canh cuối, gió thổi mang nhiều mùi hương khác nhau. Những cơn gió ấy khi chạm vào thân chúng sanh, làm cho họ được hạnh phúc an lạc như Tỷ Kheo nhập vào Diệt Tận Định.
22. Trong cõi Phật đó, này Ā-nan-đa, hoàn toàn không có các khái niệm về lửa, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các sao hay khái niệm về bất kỳ thiên thể nào, khái niệm về bóng tối, tối tăm, đều hoàn toàn không có. Không có khái niệm về đêm hay ngày, ngoại trừ sự tồn tại khái niệm về Như Lai, và không có khái niệm về sở hữu rừng, đất đai, hay sở hữu bất cứ thứ gì.
23. Trong thế giới Phật đó, này Ā-nan-đa, có thời điểm những đám mây tích nước mưa xuống, mang nước thơm cõi trời. Có thời điểm các đám mây mưa hoa bảy báu từ cõi trời rơi xuống. Có mây mưa các loại bột gỗ đàn hương cõi trời, các lọng, cờ, phướn cõi trời, màn che, lọng ngọc và tất cả các trang sức cõi trời, treo giữ trên hư không, các loại nhạc cụ cõi trời không đánh mà tự kêu, tấu các bản nhạc cõi trời, các tiên nữ cõi trời nhảy múa theo tiếng nhạc.
24. Trong cõi Phật đó, này Ā-nan-đa, các chúng sanh đã sinh, đang sinh và sẽ sinh về, tất cả đều có tánh chánh đẳng giác cho đến khi đạt được Niết Bàn tịch tịnh. Lý do tại sao? Này Ā-nan-đa, bởi vì họ không bị kẹt vào 2 vị trí nhận thức, một là vị trí nhận thức không cố định, hai là vị trí nhận thức cố định nhưng trong sai lầm. Vì lý do này, này Ā-nan-đa, thế giới đó có tên là Cực Lạc. Đây là nói một cách tóm tắt. Nếu nói chi tiết, này Ā-nan-đa, thì không thể nào đạt tới giới hạn hay khen ngợi hết các nguyên nhân hạnh phúc cực lạc của thế giới Cực Lạc đó.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngay khi đó đã nói những bài kệ này:
23. Tất cả chúng sinh đều hạnh phúc,
Trí tuệ thanh tịnh, hiểu chân lý,
Họ được tối thượng chánh đẳng giác,
Hàng triệu đại kiếp hoặc hơn nữa,
Làm đẹp tỏa sáng cõi Cực Lạc.
24. Khi chục triệu kiếp đã đi qua,
Kim cương tinh khiết chẳng biến chất,
Thế giới Cực Lạc cũng như vậy,
Sắc thái vẻ đẹp chẳng thay đổi,
Ánh sáng ở đó chẳng cùng tận,
Nhiều màu sắc chiếu rọi khác nhau.
25. Tất cả thế giới nghiền thành bụi,
Mỗi một hạt bụi, một lượng tử,
Mỗi một lượng tử một thế giới,
Bao nhiêu lượng tử, bấy nhiêu giới,
Cúng dường đầy ắp các bảo vật.
26. Không phép tính nào so sánh được,
Công đức cúng dường khắp các cõi,
Nhưng chỉ mỗi thế giới Cực Lạc,
Chỉ cần nghe danh, sinh công đức,
Thánh thiện, trong sạch, lòng dễ chịu.
27. Những ai tin Phật với trí tuệ,
Từ đó họ đạt nhiều công đức,
Niềm tin thực sự là gốc rễ,
Trong thế gian để đạt chánh giác,
Do đó, khi nghe được pháp này,
Lòng nghi ngờ nên được loại bỏ.
25. Này Ā-nan-đa, thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đó có vô lượng vô biên công đức thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu như vậy.
26. Thực vậy, này Ā-nan-đa, đức Phật Amitābha Như Lai ấy được các đức Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, mỗi phương là Hằng Hà Sa cõi Phật, tán dương danh hiệu, miêu tả, nói về danh tiếng, nêu ra công đức của Ngài.
27. Những ai, này Ā-nan-đa, trong số các chúng sanh biết tôn kính, kính trọng và nhớ nghĩ về đức Như Lai ấy, gieo trồng vô số căn lành, chuyển hóa tâm trí để giác ngộ tỉnh thức, và nguyện cầu tái sinh về thế giới đó. Vào thời khắc lâm chung, Đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, sẽ xuất hiện trước mặt người đó, cùng với nhiều chư Tăng vây quanh và dẫn dắt. Ngay khi người này nhìn thấy Đức Phật với tâm trong sáng hoan hỷ và khi rời khỏi thân hiện hữu của mình, chính ngay lúc đó sẽ tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhavati.
Này Ā-nan-đa, bất kỳ thiện nam, thiện nữ nào mong muốn rằng: “Tôi phải dùng pháp nào để có thể thấy được Đức Phật Amitābha Như Lai?”, thì người đó nên phát tâm chánh đẳng chánh giác vô thượng. Họ cần phải tận tâm và nỗ lực liên tục, hướng tâm trí tới cõi Phật đó để tái sinh, và các căn lành nên được chuyển hóa, hướng tới sự tái sinh.
28. Nếu có những người không thường xuyên nhớ nghĩ về đức Như Lai ấy, cũng không thường xuyên gieo trồng vô số căn lành, nhưng khi đặt hình tượng, sắc tướng với kích thước, chiều cao, cấu trúc hình thể của đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác cùng chư Tăng vây quanh đứng đối diện trước họ, thì ngay thời khắc lâm chung, người đó phát sanh trí tuệ. Bằng cách nhìn thấy đức Như Lai ấy, nhờ vào trái tim thanh tịnh, nên người này được tâm thiền định, tỉnh thức không bị xao lãng ngay lúc rời khỏi thân hiện tại của mình, và tái sanh về cõi Phật đó.
29. Những ai, này Ā-nan-đa, trong số các chúng sanh phát khởi trong tâm trí 10 lần niệm đức Như Lai ấy và mong muốn tái sinh về cõi Phật đó, sẽ đạt được pháp rất sâu, lòng họ trở nên an lạc, thỏa mãn, không còn nguy hiểm, không còn buồn rầu, đau khổ, rối loạn hay rơi vào hoảng loạn. Cuối cùng, chỉ một lần khởi tâm niệm Đức Phật đó, người ấy, trong giấc mơ, sẽ thấy được Đức Phật Amitābha Như Lai và sẽ được tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhavati. Người ấy không còn thoái chuyển và sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
30. Theo ý nghĩa này, hãy xem, này Ā-nan-đa, các đức Như Lai trong mười phương vô lượng vô biên không thể đếm được, ở tại cõi Phật của mình, đều ca ngợi danh hiệu, ca ngợi tiếng vang, hình dáng, sắc tướng của đức Phật Amitābha Như Lai.
Lại nữa, này Ā-nan-đa, ở trong cõi Phật đó, Bồ Tát khắp từ mười phương, mỗi phương nhiều như cát sông Hằng, đều đến để chiêm ngưỡng, cung kính, đảnh lễ, thân cận, phục vụ và hỏi đáp với đức Phật Amitābha Như Lai. Các đoàn Bồ Tát đó đến đây để quan sát các đặc điểm nổi bật của thế giới đó và học cách trang nghiêm công đức cho cõi Phật của mình.
31.Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngay khoảnh khắc đó muốn giải thích ý nghĩa này với mức độ lớn hơn, nên nói những bài kệ này:
28. Giống như số cát trong sông Hằng,
Là số cõi Phật khắp mười phương,
A Di Đà Phật đứng trên hết.
29. Chúng sanh nơi đó cầm nhiều hoa,
Đa dạng màu sắc và thơm ngát,
Đẹp đẽ rắc lên vị lãnh đạo,
Đức Phật A Di Đà Như Lai,
Bậc cao quý nhất trong loài người,
Được cả trời người đều tôn kính.
30. Như vậy, phương đông, tây, nam, bắc,
Từ các cõi Phật khắp mười phương,
Các Bồ Tát từ khắp mọi nơi,
Đến đảnh lễ Vô Lượng Thọ Phật.
31. Họ cầm nhiều loại hương thơm quý,
Đa dạng màu sắc và thơm ngát,
Đẹp đẽ rắc lên vị lãnh đạo,
Đức Phật A Di Đà Như Lai,
Bậc cao quý nhất trong loài người,
Được cả trời người đều tôn kính.
32. Sau khi cúng dường và đảnh lễ,
Đôi chân đức Phật A-mi-tā,
Các Bồ Tát đi vòng xung quanh,
Nói lên cảm thán như thế này:
“Ôi, cõi Phật này thật kỳ diệu,
Chiếu sáng, toả sáng thật tuyệt vời!”
33. Họ cầm nhiều bó hoa để rải,
Lòng họ hoan hỷ không gì bằng,
Với niềm vui, tự do tuỳ ý,
Đứng trước đức Phật, Bậc Đạo Sư,
Nói lên lời nguyện như thế này:
“Cõi của chúng con sẽ giống vậy!”
34. Những bó hoa đã được rải đó,
Hóa thành lọng hoa tụ trên cao,
Che phủ hàng trăm yojana,
Trang trí, làm đẹp và toả sáng,
Bao phủ toàn bộ thân thể Phật.
35. Sau khi các Bồ Tát cúng dường,
Tôn kính đức Như Lai như vậy,
Họ rất thoả mãn và hài lòng,
Huống chi những ai trong chúng sanh,
Ngay ở đó họ được lợi ích,
Khi nghe danh hiệu Phật Tối Thượng.
36. Chúng ta cũng đã đạt lợi ích,
Từ trước khi đến cõi Phật này,
Hãy nhìn xem cõi Phật này giống,
Như giấc mơ, được Phật từ bi,
Tạo ra qua hàng ngàn đại kiếp.
37. Hãy nhìn xem đức Phật Tối Thượng,
Kho tàng phước đức sáng tuyệt luân,
Các vị Bồ Tát vây xung quanh,
Amitābha Như Lai Phật,
Ánh sáng của Ngài là vô hạn,
Sức mạnh, thọ mạng cũng vô hạn,
Cùng với Tăng đoàn số vô hạn.
38. Phật A-mi-tā mỉm miệng cười,
Ba trăm sáu mươi triệu tỷ tỷ,
Là số tia sáng từ khuôn mặt,
Chiếu sáng khắp mười tỷ thế giới.
39. Rồi tất cả những tia sáng đó,
Đều quay trở lại đỉnh đầu Phật,
Chư thiên và loài người hoan hỷ,
Khi biết được ánh sáng đức Phật.
40. Khi ấy một người con đức Phật,
Có danh tiếng lớn, bậc đứng đầu,
Ông ấy tên là Quán Thế Âm,
Từ chỗ ngồi, ông liền đứng dậy,
Hỏi đức Thế Tôn: Nguyên nhân nào,
Lãnh đạo thế giới nở nụ cười?
41. Xin Bậc Thông Thạo Các Ý Nghĩa,
Vì lòng thương lợi ích chúng sanh,
Người giải thoát rất nhiều chúng sanh,
Xin hãy từ bi giải thích rõ,
Khi nghe những lời tối thượng này,
Các chúng sanh sẽ được dễ chịu,
Với tâm trí hân hoan vui vẻ.
42. Các Bồ Tát từ nhiều thế giới,
Đã khởi hành đến cõi Tây Phương,
Sukhavati Cực Lạc đây,
Để chiêm ngưỡng Như Lai Thiện Thệ,
Sau khi nghe, họ được vui lớn,
Có thể xem khắp thế giới này.
43. Khi đến được cõi rộng lớn này,
Ngay lập tức được thần thông lớn,
Thiên nhãn, thiên nhĩ, các thần túc,
Nhớ lại nhiều đời sống quá khứ,
Thành thạo các hạnh Bờ Bên Kia.
44. Khi đó Phật Di Đà giải thích:
Lời nguyện của tôi thuở xa xưa,
Làm cách nào để các chúng sanh,
Danh hiệu của tôi khi nghe được,
Đều được tái sanh về Cực Lạc.
45. Lời nguyện tươi sáng này của tôi,
Nay đã hoàn thành rất tốt đẹp,
Các chúng sanh từ nhiều thế giới,
Ngay khi họ đi đến gần tôi,
Liền đạt được một đời bất thoái.
46. Do đó, Bồ Tát nào mong muốn:
Cõi của tôi cũng giống như vầy,
Nhiều chúng sanh sẽ được giải thoát,
Bằng cách gặp tiếng danh hiệu tôi.
47. Người ấy nên nhanh chóng đi đến,
Cõi Cực Lạc Sukhavati,
Sau khi đến được thế giới này,
Trước tiên cúng dường Vô Lượng Quang,
Và cúng dường mười tỷ đức Phật.
48. Sau khi cúng dường chục triệu Phật,
Đến nhiều cõi khác bằng thần thông,
Cúng dường, thân cận các Thiện Thệ,
Với lòng sùng kính các Như Lai,
Sukhāvatī từ đây đến.
32. Lại này Ā-nan-đa, cây bồ đề của đức Phật A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, có chiều cao 1000 yojana, tán cây, cành nhánh lá trải rộng 800 yojana, chu vi gốc dày 500 yojana, luôn luôn có lá, có hoa, có quả nhiều màu sắc, với hàng trăm, hàng ngàn màu sắc khác nhau. Cây này có nhiều loại lá, nhiều loại hoa, nhiều loại quả được trang trí bằng nhiều loại ngọc quý khác nhau. Cây được trang trí bằng các viên ngọc Nguyệt Quang sáng như mặt trăng, ngọc Thích Ca Tỳ Lăng Già, ngọc như ý cin-tā-ma-ṇi phủ kín, có các loại ngọc quý từ dưới đáy biển sâu, vượt qua cả vẻ đẹp của thiên giới. Trên cây được treo bằng các sợi chỉ vàng và trang trí với nhiều loại trang sức và châu báu quý giá. Cây được bao quanh bởi các lưới vàng, ngọc trai và các loại đá quý, được trang trí với hình uốn lượn ma-ka-ra, hình chữ vạn sva-sti-ka, hình quy luật tuần hoàn đối xứng theo thứ tự nan-điā-var-ta, hình tròn như mặt trăng, được tô điểm bằng nhiều loại đá quý và trang sức khác nhau. Cây này được trang trí theo ý muốn của chúng sanh, và này Ā-nan-đa, khi gió thổi qua cây Bồ Đề này, âm thanh phát ra vang vọng khắp vô lượng vô biên thế giới, khiến khắp nơi đều biết đến.
Này Ā-nan-đa, những chúng sanh ở đó, khi âm thanh của cây Bồ Đề này chạm đến lỗ tai của họ, họ sẽ không còn phải lo lắng các bệnh về tai, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Có các chúng sanh số vô lượng vô biên, không thể đếm được, không thể tưởng tượng được, không thể miêu tả được, khi họ được ánh sáng của cây Bồ Đề này chiếu đến mắt của họ, họ sẽ không còn phải lo lắng các bệnh về mắt, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Và này Ā-nan-đa, có chúng sanh nào ngửi được mùi hương của cây Bồ Đề này, họ sẽ không còn phải lo lắng các bệnh về mũi, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Và những chúng sanh nào thưởng thức quả của cây Bồ Đề đó, họ sẽ không còn phải lo lắng các bệnh về miệng, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Những chúng sanh nào ở dưới tán cây Bồ Đề đó, lòng họ trở nên không còn sợ hãi, khởi lên cảm giác an toàn, họ sẽ không còn phải lo lắng các bệnh về thân, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Và này Ā-nan-đa, những chúng sanh nào tâm định chuyên chú về pháp tánh của cây Bồ Đề này, họ sẽ không còn lo lắng về sự phân tâm, cho đến khi họ đạt được giác ngộ tối hậu. Và tất cả các chúng sanh đó đều an trú vững chắc không còn thoái chuyển trên đường đạt đến được Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng khi nhìn thấy được cây Bồ Đề ấy. Họ cũng đạt được 3 loại kiên nhẫn: Sự kiên nhẫn do thuận theo âm thanh (Âm Thanh Nhẫn), sự kiên nhẫn do tâm được nhu thuận (Nhu Thuận Nhẫn), sự kiên nhẫn do các pháp không còn sinh khởi (Vô Sanh Pháp Nhẫn). Tất cả đều nhờ vào lời nguyện trước đây của đức Phật Amitābha Như Lai, nhờ công đức mà ông ấy đã tạo ra từ các đức Phật thuở quá khứ, nhờ vào việc thực hiện các lời nguyện của ông ấy thuở quá khứ, đã được tu dưỡng tốt đẹp, hoàn thành viên mãn, không còn thiếu sót.
33. Và này Ā-nan-đa, những Bồ Tát đã, đang, hoặc sẽ tái sinh về thế giới đó, tất cả họ chỉ còn bị ràng buộc bởi một đời sống cuối cùng, và sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngoại trừ những vị Bồ Tát có bổn nguyện riêng của mình, trang bị lòng dũng cảm và kiên cường, phát tiếng gầm lớn như sư tử, và cam kết vào sự giải thoát toàn diện Niết Bàn hoàn toàn tịch tịnh của tất cả chúng sanh.
34. Lại này Ā-nan-đa, trong cõi Phật đó, hàng Thanh Văn có ánh sáng trải rộng trong khoảng một tầm tay. Các Bồ Tát có ánh sáng trải rộng 1000 tỷ yojana, ngoại trừ hai vị Bồ Tát, ánh sáng của hai người này chiếu sáng liên tục khắp cả thế giới đó.
Lúc bấy giờ, Trưởng lão Ā-nan-đa hỏi đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn, hai vị đại Bồ Tát đó tên là gì?
Đức Phật đáp: Này Ā-nan-đa, trong hai vị đó, một người tên là A-va-lô-ki-tê-śva-ra (Quán Thế Âm) Đại Bồ Tát, một người tên là Ma-hās-thā-ma-prāp-ta (Đại Thế Chí) Đại Bồ Tát. Hai người đó, này Ā-nan-đa, đã bỏ thân ở cõi Phật này, và tái sinh về thế giới ấy.
35. Và này Ā-nan-đa, trong cõi Phật đó, các Bồ Tát đã tái sinh về, tất cả đều có ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, thân thể đầy đủ hoàn chỉnh, thông thạo thiền định và thần thông, có trí tuệ Bát Nhã khéo léo phân tích, có các giác quan sắc bén, có thể kiểm soát tốt các giác quan, có thể điều khiển các giác quan, và có sức mạnh không suy giảm, có vô số công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu không bị giới hạn.
36. Lại này Ā-nan-đa, trong cõi Phật đó, các Bồ Tát đã tái sanh về, tất cả đều không lúc nào chẳng thấy đức Phật, không sa vào tà đạo, cho đến khi đạt đến giác ngộ tỉnh thức, tất cả họ đều có thể nhớ lại các đời sống quá khứ của mình, chỉ ngoại trừ trường hợp trong các đại kiếp biến động, khi mà các Bồ Tát do bổn nguyện quá khứ riêng của mình sinh vào trong đời ác năm trược, khi các đức Phật Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, giống như trường hợp của ta hôm nay.
37. Lại này Ā-nan-đa, trong cõi Phật đó, các Bồ Tát đã tái sanh về, tất cả họ chỉ với một lần cúng dường, có thể đi đến nhiều thế giới khác, có thể cúng dường hàng trăm triệu tỷ tỷ đức Phật. Cho đến chừng nào họ còn mong muốn, bằng sức mạnh toàn giác, trong tâm ý của họ chỉ cần khởi lên như thế nào, thì các hình thức như hoa, hương, đèn, hương thơm, vòng hoa, nước thơm, bột hương, y phục, lọng che, cờ, cờ hiệu, vòng hoa chiến thắng, nhạc cụ, âm nhạc đều hiện lên như thế đó để họ cúng dường. Cũng như vậy, khi họ đồng thời khởi tâm tất cả những thứ đó, thì tất cả các vật phẩm cúng dường đều xuất hiện nơi tay của họ. Và khi họ cúng dường các bông hoa, các nhạc cụ đó cho các đức Phật Thế Tôn, họ tích luỹ được thiện căn công đức vô lượng vô biên, không thể tính đếm được. Nếu họ mong muốn: “Các bông hoa hãy xuất hiện trên tay của tôi”, khi họ đồng thời khởi tâm, thì các bông hoa cõi trời với nhiều mùi hương, nhiều màu sắc khác nhau xuất hiện trên tay của họ. Họ rải những bông hoa đó lên các đức Phật Thế Tôn, rải đều và rải tung lên. Những bông hoa được họ rải tung lên đó, kết thành một lọng hoa rộng mười yojana xuất hiện trên không trung. Khi bông hoa thứ hai chưa được rải, thì bông hoa đầu tiên không rơi xuống đất. Ở đó, có các bông hoa khi được rải, sẽ kết thành các lọng hoa rộng hai mươi yojana trên bầu trời. Có các lọng hoa rộng ba mươi, bốn mươi, năm mươi cho đến hàng trăm ngàn yojana xuất hiện trên bầu trời.
Những người sinh ra ở đó, họ có được lòng vui sướng hạnh phúc cao thượng với tâm hồn cởi mở cao thượng. Họ gieo trồng vô số căn lành, không thể đếm được bằng cách cúng dường tôn kính với hàng trăm triệu tỷ tỷ các đức Phật, chỉ trong một buổi sáng, họ đã có thể quay về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, nhờ sự ban phước lành và nguyện lực thuở quá khứ của đức Phật Amitābha Như Lai, nhờ việc nghe pháp thuở quá khứ, nhờ việc gieo trồng các căn lành với các đức Phật thuở quá khứ, nhờ sự thành tựu và viên mãn các lời nguyện thuở quá khứ, nên họ đã được tu dưỡng và phân bổ một cách tốt đẹp.
38. Lại này Ā-nan-đa, trong cõi Phật đó, những chúng sanh tái sinh về, tất cả đều có thể sống với Tánh trí tuệ toàn tri, lời nói ra đều đúng với pháp. Trong cõi Phật đó, các chúng sanh không có tồn tại suy nghĩ sở hữu bất kỳ thứ gì trên đời, khi họ đi dạo bước trong cõi Phật đó, lòng họ không có khởi lên thích thú hay chẳng thích thú. Khi họ đi, họ chẳng có trông mong bất kỳ thứ gì trên đời, khi họ đứng, họ cũng chẳng trông mong bất kỳ thứ gì trên đời. Tất cả các chúng sanh đều không có tâm suy nghĩ tưởng tượng.
Và này Ā-nan-đa, trong cõi Cực Lạc Sukhāvatī đó, những chúng sanh đã tái sinh về, tất cả họ đều không có tồn tại suy nghĩ về bất kỳ thứ gì trên đời, không có tồn tại suy nghĩ đây là ta, không có tồn tại suy nghĩ đây là của ta, không có tồn tại suy nghĩ cái này là không đúng, không có tồn tại suy nghĩ về tranh chấp, không có tồn tại suy nghĩ về phân biệt, không có tồn tại suy nghĩ đối lập, không có tồn tại suy nghĩ xung đột. Họ có tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm mềm mỏng, tâm dịu dàng, tâm siêng năng, tâm vui vẻ, tâm kiên định, tâm không bị che lấp, tâm không dao động, tâm không bị rối loạn, tâm hành động theo hạnh của Trí Tuệ Bờ Bên Kia, trái tim và trí não của họ đạt đến trí tuệ sâu xa. Trí tuệ Bát Nhã của họ giống như biển cả, toàn giác của họ giống như núi Mê-ru, tích luỹ nhiều công đức với đầy đủ sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, gắn liền với các yếu tố giác ngộ tỉnh thức.
Các trò vui chơi giải trí của họ thường là ca tụng toàn giác của Phật, khi dùng mắt thịt để quan sát khám phá, nhưng con mắt cõi trời (thiên nhãn) lại hiện ra, đạt được con mắt trí tuệ (trí nhãn), đạt được con mắt pháp (pháp nhãn), đạt được con mắt toàn giác (Phật nhãn), với con mắt hiển thị sáng tỏ, chiếu sáng một cách chi tiết, làm xuất hiện trí tuệ không bị dính mắc. Trong lòng họ, ba cõi đều bình đẳng, họ có tâm điều phục, tâm thanh tịnh, nhận thức toàn bộ thực tại, khéo léo trong việc giải thích sự sinh khởi, có thể giải thích pháp, có thể khéo giải thích các yếu tố chính và phụ của giáo lý, khéo léo nhận biết đâu là pháp, đâu là phi pháp, khéo léo trong các vị trí trú tâm. Đối với các vấn đề của thế gian nơi họ cư trú, lòng họ không có mong đợi bất kỳ thứ gì trên đời. Với những lời thuyết giảng vượt ngoài thế gian, họ đạt được tinh tuý cốt lõi.
Họ khéo léo tìm hiểu tất cả các pháp, sống với trí tuệ hạnh phúc an lạc, hiểu biết bản chất của tất cả pháp, đạt đến trạng thái không nắm bắt, không còn sở hữu, không còn ràng buộc, không bám chấp, không lo lắng, không có chướng ngại, không bị ngăn cản, hoàn toàn giải thoát, không mắc kẹt, không vết bẩn, không bị chìm đắm, tâm không bám trú vào đâu, được các thần thông, tâm không bị dính mắc vào bất kỳ thứ gì, không còn vướng bận, không bị chìm sâu, tâm định rất sâu trong pháp, tâm chuyên chú, tâm không bị sa lầy, đạt được sự hiểu biết sâu xa về trí tuệ toàn giác của Phật, đã đạt được con đường Nhất Thừa độc nhất, không còn nghi ngờ, không còn tranh cãi, trí tuệ không cần dựa vào ai khác, không có lòng kiêu căng ngã mạn. Lòng họ giống như núi Su-mê-ru, đã đạt đến sự thăng hoa của trí tuệ. Lòng họ giống như biển cả, trí tuệ không còn bị lay chuyển, trí tuệ Bát Nhã sáng suốt vượt hơn cả ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, với tâm hồn thanh tịnh, trong sạch, trắng sáng và thiện lành, giống như màu vàng của vàng tinh luyện chiếu sáng rực rỡ, giống như mặt đất chịu đựng được cả điều lành và điều chẳng lành của tất cả chúng sinh, giống như nước với khả năng cuốn trôi mọi gốc rễ phiền não, giống như vua của lửa với khả năng thiêu rụi mọi điều chẳng lành và phiền não của các pháp, giống như gió với khả năng không bị dính mắc vào tất cả các thế gian, giống như không gian với khả năng không bị xao động bởi tất cả các pháp, hoàn toàn không có gì để nắm bắt, giống như hoa sen không bị ô nhiễm bởi tất cả các thế gian, giống như đám mây lớn dần theo thời gian với khả năng làm cho Pháp âm vang dội, giống như cơn mưa lớn với khả năng làm mưa Pháp tràn ngập, giống như một con bò đực lớn với khả năng chinh phục các đấu trường, giống như rồng lớn với tâm cực kỳ thuần khiết, giống như con ngựa tốt hoàn toàn thuần phục, giống như sư tử, vua của các loài thú dũng mãnh và tự tin, giống như cây cổ thụ lớn Nya-gro-dha với khả năng che chở tất cả chúng sinh, giống như núi lớn không bị bất kỳ lý luận nào lay chuyển được, giống như bầu trời với tình thương vô biên, giống như đại Phạm thiên với quyền năng vượt trội trong tất cả căn lành và Pháp, giống như chim bay không trú ngụ, không tích lũy, giống như vua của loài đại bàng vàng Ga-ru-đa với khả năng hủy diệt mọi lý luận sai lầm, giống như hoa Sung U-đum-ba-ra với sự khó đạt được, giống như rồng thần, có sự tập trung vững chắc, với các giác quan không bị rối loạn.
Họ khéo léo trong việc xác định với nhiều phẩm hạnh của sự kiên nhẫn, không có ganh tị, không mong muốn tài sản của người khác, khéo léo, thông thạo trong việc giảng Pháp, tự hài lòng với sự tìm hiểu Pháp. Giống như ngọc lưu ly xanh, là giới hạnh của họ. Giống như kho báu, là kiến thức mà họ nghe được. Họ có giọng nói ngọt ngào, dễ chịu với âm vang lớn của trống Pháp. Họ có thể đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn, dựng cao cờ pháp lớn, đốt đuốc pháp lớn. Họ nhìn bằng trí tuệ, không bị lầm lạc, không có lỗi lầm, không còn cứng rắn, ôn hòa, thanh tịnh, không có mùi bất thiện, không tham lam, thích chia sẻ, sống trong tự do, tay rộng mở, thích bố thí và chia sẻ pháp và vật chất. Lòng họ không ganh tị trong việc bố thí, không bị dính mắc, không sợ hãi, không tham luyến, lòng họ mạnh mẽ, dẫn đầu, kiên định, có lòng từ bi, sắp xếp tốt cho chúng sanh, lòng họ vững vàng kiên cố.
Họ đạt được các thần thông, sống hòa thuận, mang lại lợi ích và chiếu sáng khắp thế giới. Họ không gặp tai họa, có lòng can đảm, không bị dục vọng và bóng tối bao phủ, không có buồn phiền, trong sáng, mắt sáng không mờ, thích chơi với thần thông, mạnh mẽ về nhân quả và mạnh mẽ về nguyện lực. Lòng họ không có xiêu vẹo, không cong quẹo, đã gieo trồng hàng triệu căn lành, đã nhổ gốc kiêu mạn và không còn tham sân si. Lòng họ thanh tịnh, với ý chí thanh tịnh, được ca ngợi bởi sức mạnh toàn giác của Phật, là bậc trí giả của thế gian, đạt đến trí tuệ sáng suốt, tâm tánh Như Lai thuần thiện, dự vào hàng thanh tịnh. Họ dũng cảm, kiên định, không kiêu căng ngã mạn, không có gì che khuất, không thể so sánh, không có tỳ vết, còn có cả lòng từ bi và cao thượng. Họ mạnh mẽ, kiên định, có trí nhớ, thông minh, có phương hướng, có vũ khí trí tuệ Bát Nhã sắc bén, có phước báu, rực rỡ, không còn cố chấp, không còn ô nhiễm, có trí nhớ, và sống trong trí tuệ và hạnh phúc an lạc.
Nếu nói thêm đầy đủ chi tiết nữa, dù Như Lai có mô tả kéo dài trong hàng trăm triệu tỷ tỷ kiếp, cũng không thể nào nói hết được đức hạnh của các vị thiện nhân, và cũng không thể nào diễn tả được tận cùng sức mạnh của đức Như Lai ấy. Tại sao vậy? Bởi vì, này Ā-nan-đa, cả hai đều không thể nghĩ bàn được, không thể so sánh được, đó là các đức hạnh của các Bồ Tát và trí tuệ vô thượng của đức Như Lai ấy.
39. Này Ā-nan-đa, ông hãy đứng dậy, quay mặt về hướng Tây, tay cầm hoa và đảnh lễ. Đây là hướng nơi có đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiện đang cư trú, giảng pháp thanh tịnh, không có tỳ vết. Danh hiệu của đức Phật ấy không bị che lấp, được các đức Phật trong mười phương thế giới, trong mỗi phương nhiều như cát sông Hằng ca tụng, miêu tả, khen ngợi rất nhiều lần, không lời nào có thể đối đáp lại được.
Sau khi được nói như vậy, và Ā-nan-đa đã đảnh lễ xong, khi ấy Trưởng lão Ā-nan-đa đã nói lời này với đức Thế Tôn: Thưa Thế Tôn, con muốn thấy được đức Phật Amitābha, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, cùng các chúng sanh tỉnh thức, các đại Bồ Tát, người đã gieo trồng căn lành từ vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ đức Phật.
Ngay khi Trưởng lão Ā-nan-đa vừa nói dứt lời, từ lòng bàn tay của đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác phóng ra một luồng hào quang. Hào quang đó bao trùm khắp một trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật, chói ánh sáng lớn, làm cho mọi thứ đều hiện rõ ràng. Ngay lúc đó, khắp nơi trong một trăm triệu tỷ tỷ cõi Phật đó, tất cả mọi thứ từ quy luật không gian và thời gian, các khối vật chất hình thành vũ trụ, các cụm thiên hà Mê-ru, các siêu cụm thiên hà Ma-hā-mê-ru, các sợi vũ trụ Mu-chi-lin-đa, các sợi liên kết vũ trụ lớn Ma-hā-mu-chi-lin-đa, các vòng xoáy thiên hà Chắc-ra-vā-la, các vòng xoáy thiên hà lớn Ma-hā-chắc-ra-vā-lā, các sao, các hành tinh, từ hành tinh đất đá cho đến hành tinh khí, sự xoay chuyển hành tinh quanh sao, nơi hành tinh có sự sống có các khu rừng, vườn cây, thành phố, cung điện của chư thiên và loài người. Tất cả những thứ ấy, đều hiện rõ ràng trong ánh sáng của đức Như Lai ấy.
Lấy một ví dụ, có hai người đứng cạnh nhau trong khoảng một tầm tay, khi mặt trời mọc lên, cả hai người đều có thể quan sát thấy rõ nhau được. Cũng như vậy, ở trong cõi Phật này, các Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni, Cư Sĩ Nam, Cư Sĩ Nữ, chư thiên, rồng thần, Dạ Xoa, quỷ thần La Sát, Càn Thát Bà, A Tu La, Ga Ru Đa, Khẩn Na La, Ma Hô Ra Ga, người và phi nhân, tại thời điểm đó, đều thấy được đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, giống như núi chúa Su-mê-ru, vua của các ngọn núi nổi bật lên khỏi tất cả các cõi, chinh phục, chiếu sáng khắp các hướng, tỏa sáng rực rỡ, cùng với đại chúng Bồ Tát và các Tỷ Kheo ở thế giới đó, nhờ thần lực của Phật, tất cả đều hiện rõ ràng trong ánh sáng thanh tịnh đó.
Lấy một ví dụ, như quả đất lớn được cấu tạo thuần là nước, không có cây cối, không có đảo, không có lục địa, không có cỏ cây, thảo dược hay rừng, không có sông, không có hẻm núi và thác nước xuất hiện, chỉ ngoại trừ một đại dương lớn trùm khắp tất cả bề mặt của quả đất. Cũng như vậy, trong cõi Phật đó, không có bất kỳ dấu hiệu đặc điểm nào khác, ngoại trừ các đệ tử Thanh Văn với ánh sáng rộng một tầm tay, các Bồ Tát có ánh sáng rộng 1000 tỷ yojana, và thấy ánh sáng của đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, chiếu sáng khắp tất cả các hướng, với ánh sáng vượt trội hơn ánh sáng của các Thanh Văn và Bồ Tát.
Cũng ngay thời điểm đó, ở tại thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, các Bồ Tát, Thanh Văn, chư thiên và loài người, tất cả họ đều thấy được thế giới Ta Bà này, thấy được đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng pháp cho các chúng Tỷ Kheo vây quanh.
40. Khi ấy, đức Thế Tôn hỏi đại Bồ Tát A-ji-ta rằng: Này A-ji-ta, ông có thấy sự trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu trong cõi Phật đó không? Ông có thấy trên khắp cõi Phật đó, có các khu vườn xinh đẹp với nhiều loài hoa, các con sông và hồ đẹp, trải đầy các loại hoa sen pad-ma, hoa sen xanh Ut-pa-la, hoa súng Ku-mu-đa, hoa sen trắng lớn Puṇ-ḍa-rī-ka không? Ông có thấy từ dưới mặt đất cho đến tầng trời A-ka-niṣ-ṭha phủ đầy hoa, trang trí bằng các dãy hoa, thành các cột trụ quý ngay ngắn rực rỡ không? Ông có thấy nhiều loài chim được đức Như Lai đó tạo ra không?
A-ji-ta Bồ Tát đáp: Con thấy, thưa Thế Tôn.
Đức Phật hỏi: Này A-ji-ta, ông có thấy các nhóm chim thần ấy hót các tiếng toàn giác, vang khắp tất cả thế giới chư Phật, khiến các Bồ Tát không bao giờ xa rời niệm toàn giác của Phật không?
A-ji-ta đáp: Con thấy, thưa Thế Tôn.
Đức Phật hỏi: Này A-ji-ta, ông có thấy trong cõi Phật đó, các chúng sanh cư trú trong các cung điện rộng hàng trăm ngàn yojana, di chuyển trên không trung với sự cung kính không?
A-ji-ta đáp: Con thấy, thưa Thế Tôn.
Đức Phật hỏi: Này A-ji-ta, ông nghĩ sao, có một chút khác biệt nào giữa chư thiên cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin và loài người trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đó không?
A-ji-ta đáp: Thưa Thế Tôn, con không thấy một chút khác biệt nào giữa chư thiên cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hóa Pa-ra-nia-mi-ta-va-śa-va-tin và loài người trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đó.
Đức Phật hỏi: Này A-ji-ta, ông có thấy trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đó, có con người được sinh ra và sống trong những hoa sen lớn không?
A-ji-ta đáp: Con lấy một ví dụ, như chư thiên trời Ba Mươi Ba, chư thiên trời Ya-ma, sống trong các cung điện rộng 50 yojana, hoặc cung điện rộng 100 yojana, hoặc cung điện rộng 500 yojana, được phục vụ với những trò vui chơi, giải trí vui vẻ. Thưa Thế Tôn, con thấy những người được sinh ra và sống trong những hoa sen lớn đó cũng giống như vậy trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī.
41. Thưa Thế Tôn, con thấy cách được sinh ra của những chúng sanh ở đó thật kỳ diệu. Có người sinh ra từ hoa sen, xuất hiện trên toà sen với tư thế ngồi kiết già, có người phải sống trong búp hoa sen, khi sen nở, họ mới xuất hiện trên toà sen. Vậy vì nguyên nhân gì, thưa Thế Tôn, với điều kiện nào, mà có những chúng sanh sinh ra và phải sống trong búp sen giống như trong bụng mẹ, được sinh ra qua thai nghén, trong khi những chúng sanh khác được sinh ra từ hoa sen, xuất hiện trên tòa sen?
Đức Phật nói: Này A-ji-ta, có những chúng sanh tỉnh thức sống trong các cõi Phật phương khác, lòng họ hoài nghi, nghi ngờ, và gieo trồng căn lành với tâm hoài nghi đó, khi sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, thì họ sinh ra qua thai nghén trong búp sen. Còn những ai, Này A-ji-ta, không có hoài nghi, không còn nghi ngờ, và gieo trồng căn lành với các đức Phật Thế Tôn với tâm không dính mắc, phát khởi đức tin với trí tuệ không dính mắc, thì họ sinh ra từ hoa sen, xuất hiện trên tòa sen. Những người sinh ra từ hoa sen, xuất hiện trên tòa sen đó, Này A-ji-ta, là các đại Bồ Tát sống trong các cõi Phật phương khác, khi khởi tâm thấy đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, lòng họ không có hoài nghi, không có nghi ngờ, với trí tuệ toàn giác không bị dính mắc, lòng họ tin tưởng sâu sắc vào căn lành của chính mình, nên họ sinh ra từ hoa sen, xuất hiện trên tòa sen, và chỉ trong khoảnh khắc, thân thể của họ trở nên giống như những người đã sinh ra từ lâu.
Này A-ji-ta, hãy nhìn sự đặc biệt của trí tuệ Bát Nhã, với trí tuệ Bát Nhã không đồng đều, trí tuệ Bát Nhã suy giảm, trí tuệ Bát Nhã yếu kém, các chúng sanh thiếu thốn trí tuệ Bát Nhã này phải trải qua 500 năm sống trong búp sen, không thấy Phật, không thấy Bồ Tát, không nghe Pháp, không thể thuyết Pháp, khiến cho sự thực hành căn lành trở nên thiếu thốn, tất cả căn lành trở nên khiếm khuyết, điều này là do bị ảnh hưởng bởi sự nghi ngờ và do chú tâm rơi vào các suy nghĩ tưởng tượng khởi lên. Lấy một ví dụ, Này A-ji-ta, nhà tù của một vị vua được đăng quang dòng Sát-Đế-Lợi được trang trí toàn bằng vàng và ngọc lưu ly, với dải băng và dây trang trí với nhiều màu sắc khác nhau, được che phủ bằng vải, rải đầy các loài hoa, được xông hương cao quý, trang trí với cổng vòm, cửa sổ và lan can khác nhau, có bảy loại châu báu, che phủ bằng lưới chuông nhỏ, hình vuông, có bốn cột, bốn cửa và bốn bậc thang. Tại đó, con trai của vị vua ấy vì một lỗi nào đó mà bị giam cầm, bị trói bằng cùm tay làm bằng vàng ròng. Và tại đó có một chiếc giường được sắp đặt sẵn, trải nhiều loại nệm và vải lụa, được phủ bằng chăn lụa, nâng đỡ cả hai đầu bằng gối đỏ, trang trí đẹp mắt. Và nhiều loại đồ ăn và thức uống tinh khiết, được chuẩn bị một cách cẩn thận, được dâng lên hằng ngày. Ông nghĩ sao, Này A-ji-ta, việc hưởng thụ của vị hoàng tử đó có phải là rộng rãi và cao quý không?
A-ji-ta đáp: Rộng rãi và cao quý, thưa Thế Tôn.
Đức Thế Tôn hỏi: Ông nghĩ sao, Này A-ji-ta, liệu rằng vị hoàng tử đó có tận hưởng và cảm nhận được điều đó, và có cảm thấy hài lòng thỏa mãn không?
A-ji-ta đáp: Không, thưa Thế Tôn, bởi vì bị nhà vua giam cầm trong tù, vị hoàng tử đó chỉ có mong muốn được thả ngay lập tức. Vị hoàng tử đó sẽ cố gắng tìm kiếm sự trợ giúp từ các hoàng tử khác, quan lại, thương nhân, hoặc vua của các quốc gia khác, cố gắng tác động làm sao để vua có thể thả ông ra khỏi tù. Hơn nữa, thưa Thế Tôn, vị hoàng tử đó hoàn toàn chẳng có niềm vui chừng nào vẫn còn sống trong nhà tù đó, và cho đến khi được thả khỏi tù khi vua có lệnh ân xá, thì mới cảm nhận được sự tự do.
Đức Thế Tôn nói: Cũng như vậy, Này A-ji-ta, những chúng sanh tỉnh thức, nhưng còn bị ảnh hưởng bởi lòng nghi ngờ, dù cho có gieo trồng căn lành, mong muốn trí tuệ toàn giác của Phật, vì do nghe được danh hiệu của đức Phật đó, nên được tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, nhưng không xuất hiện trên toà sen, mà phải trú trong búp hoa sen như trong bụng mẹ. Mặc dù họ vẫn còn có ý thức về các khu vườn và cung điện, nhưng họ không có sự bài tiết và đi vệ sinh, không có khạc nhổ đờm dãi, trong tâm trí không có điều gì nghịch ý. Tuy vậy, trong suốt 500 năm, họ không gặp được Phật, không nghe được Pháp, không gặp được Bồ Tát, không được thảo luận về Pháp, thiếu thốn căn lành và thực hành pháp. Họ không vui thú khi sống ở đó, họ không cảm thấy hài lòng thỏa mãn khi sống ở đó, nhưng chỉ sau khi họ tiêu tan hết các ác nghiệp quá khứ và quả báo ác tương lai, thì khi ấy hoa sen mới nở, họ mới có thể ra ngoài được, mới bắt đầu xuất phát được. Tuy nhiên, xuất phát điểm của họ không nên được hiểu là cao hay thấp hay trung bình. Hãy nhìn xem, Này A-ji-ta, trong suốt 500 năm đó, có đến hàng trăm triệu tỷ tỷ đức Phật ra đời, có thể gieo trồng vô lượng vô biên, vô số, không thể đếm được các căn lành, nhưng họ không thể thực hiện được. Tất cả những điều đó đều bị phá hủy do lỗi của sự nghi ngờ. Hãy nhìn xem, Này A-ji-ta, sự nghi ngờ đã tạo ra bao nhiêu tổn hại to lớn cho các Bồ Tát.
Do đó, Này A-ji-ta, các Bồ Tát không nên nghi ngờ, không nên do dự khi khởi tâm hướng tới giác ngộ tỉnh thức, hãy nhanh chóng hồi hướng căn lành của mình để đạt được năng lực vì lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh, và để sinh ra trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, nơi mà đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác hiện đang cư trú.
42. Sau khi điều này được nói đến, Bồ Tát A-ji-ta đã hỏi điều này với đức Thế Tôn: Thưa Thế Tôn, có Bồ Tát nào từ cõi Phật này, hoặc từ các cõi Phật phương khác, tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đó không?
Đức Phật đáp: Có, Này A-ji-ta, từ cõi Phật này, đã có 72 triệu tỷ Bồ Tát đã giác ngộ tỉnh thức, và đã tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Những người đã giác ngộ tỉnh thức đó, không còn bị thoái chuyển, họ đã gieo trồng căn lành từ hàng trăm triệu tỷ tỷ đức Phật. Lại nói thêm rằng, có những chúng sanh tỉnh thức với căn lành nhỏ hơn, có 18 triệu tỷ Bồ Tát lúc trước thường thân cận gần gũi với Như Lai ta, cũng đã tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī.
Ở phương Đông, có đức Phật tên là Bảo Tạng Như Lai, từ chỗ Ngài ấy, có 900 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Nhật Quang Như Lai, có 200 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Vô Lượng Quang Như Lai, có 250 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Thế Gian Đăng Như Lai, có 600 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Long Thắng Như Lai, có 640 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Thanh Tịnh Quang Như Lai, có 250 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Sư Tử Như Lai, có 160 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của một đức Phật khác cũng hiệu Sư Tử Như Lai, có 18 ngàn Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Đức Đảnh Như Lai, có 810 triệu tỷ Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Nhân Thiên Vương Như Lai, có 100 triệu tỷ Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Lực Trí Như Lai, có 12 ngàn Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Hoa Tràng Như Lai, có 250 triệu Bồ Tát có năng lực, có sức mạnh, có những vị Bồ Tát mới ở đó được một ngày cho đến tám ngày, có những vị đã ở đó trải qua 900 triệu tỷ tỷ kiếp, cũng đã quay lại và tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Hoả Quang Chủ Như Lai, có 120 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Từ chỗ của đức Phật Đắc Trí Tuệ Thanh Tịnh Như Lai, có 690 triệu Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī. Các Bồ Tát tái sinh về đó, chỉ với mục đích để được nhìn thấy, tôn kính, phụng sự, hỏi đáp với đức Phật Amitābha Như Lai.
Này A-ji-ta, bằng cách này, lần lượt ta có thể nói ra vô số danh hiệu của các đức Phật Như Lai, từ chỗ của các đức Như Lai ấy, đều có các Bồ Tát tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, chỉ với mục đích để được nhìn thấy, tôn kính, phụng sự đức Phật Amitābha Như Lai ấy, dù có trải qua hàng chục triệu tỷ kiếp, cũng không thể nói hết được.
43. Hãy nhìn xem, Này A-ji-ta, là bao nhiêu lợi ích dễ dàng có được cho những chúng sanh nào nghe được tên gọi của đức Phật Amitābha Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Những chúng sanh đó, tâm trí của họ không có thấp kém, cho dù họ chỉ có một chút lòng thành, nhất tâm tin tưởng, nhớ nghĩ đến đức Như Lai ấy.
Vì vậy, này A-ji-ta, ta thông báo cho các ông, ta tuyên bố trước tất cả các chúng sanh và chư thiên trong thế gian, hãy nên nghe bài thuyết pháp này. Dù lửa có đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cũng nên một lòng vượt qua, tâm không hối tiếc, để nghe được bài thuyết pháp này. Tại sao vậy? Bởi vì có hàng chục triệu Bồ Tát vì không nghe được bài thuyết pháp này, nên họ bị thoái chuyển khỏi Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng.
Vì vậy, bài thuyết pháp này nên được nghe, được tiếp thu, được ghi nhớ, và thực hành với mong muốn đạt được mục đích, một cách đầy đủ và chi tiết. Để chiếu sáng và làm rõ ràng, cần phải bắt đầu thực hành và siêng năng lớn trong một ngày đêm, thậm chí ngay cả khi đang làm việc hay trong khoảng một lần vắt sữa bò, hãy nên biên chép thành sách, ghi chép cẩn thận, gìn giữ, ghi nhớ, khởi suy nghĩ đây là thầy của mình, nên làm, nên học giáo lý trong đây.
Những người muốn nhanh chóng thiết lập nền tảng và dẫn dắt vô lượng vô biên vô số chúng sanh vào trạng thái không còn thoái chuyển khỏi Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, hãy nên làm điều này. Và nhân đây, cũng để thấy được cõi Phật của đức Phật Amitābha Như Lai, và để bản thân của mình thấy được những phẩm chất đặc biệt cao quý, từ đó có thể nhìn nhận, tiếp thu, học hỏi cách trang nghiêm công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu cho cõi Phật của mình.
Thực sự, Này A-ji-ta, đây là điều vô cùng tốt lành cho các chúng sanh có thể dễ dàng đạt được các điều lợi ích, cho họ biết cách để gieo trồng căn lành, biết cách để tích lũy công đức trước các đức Phật, và cách để được toàn giác của Phật bảo hộ.
Trong tương lai, khi chánh pháp sắp diệt mất, những bài thuyết pháp cao quý này, được tất cả các đức Phật khen ngợi, chấp nhận, sẽ đến được tai của người nghe. Người nào nếu nhanh chóng tiếp thu, nhận lấy, thì có thể đạt được trí tuệ toàn giác lớn. Những người đó, sau khi nghe được pháp này, lòng họ hân hoan, rộng lớn, với niềm vui hạnh phúc an lạc. Họ sẽ nắm giữ, tiếp thu, ghi nhớ, duy trì, đọc tụng, hiểu nghĩa, hoàn toàn nắm vững giáo lý, và truyền đạt một cách đầy đủ chi tiết cho người khác, lòng họ thích thú khi thực hành pháp này. Thậm chí ngay cả sau khi viết, biên chép, và cúng dường, họ cũng sẽ tạo ra nhiều phước đức, nhiều sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu phát sinh nơi họ, không dễ gì đếm biết được số lượng.
Do đó, Này A-ji-ta, điều gì mà một đức Như Lai nên làm, ta đã làm. Các ông ngay bây giờ nên sống và làm việc với trạng thái không có nghi ngờ, không bị chướng ngại, không bị ngăn cản bằng trí tuệ toàn giác của chính mình, đừng có tự tạo ra nhà tù bằng vô số ngọc quý, rồi bước vào và tự giam cầm chính mình. Này A-ji-ta, gặp được Phật ra đời là hiếm có, nghe được giảng pháp là hiếm có, đầy đủ cơ hội quý là hiếm có. Này A-ji-ta, ta đã nói ra và giải thích cách để đạt được sự hoàn thiện tất cả căn lành. Bây giờ, các ông hãy nỗ lực và thực hành. Này A-ji-ta, ta sẽ bảo vệ lớn cho bài thuyết pháp này, không để bị tiêu huỷ, không để bị mất đi pháp toàn giác của Phật. Các ông hãy chiến đấu, nỗ lực, đừng nên vi phạm các hướng dẫn của Như Lai.
44. Ngay lúc đó, đức Thế Tôn đã nói lên những bài kệ này:
49. Những gì chẳng tạo được phước lành,
Khi nghe loạn tâm chẳng tốt lành,
Chẳng có trong sạch và dễ chịu,
Những thứ đó chẳng phải là ta,
Chẳng phải của ta, ta chẳng nắm.
Những ai dũng cảm và mong muốn,
Đạt được mục đích chánh đẳng giác,
Hãy nghe lời nói giáo pháp này.
50. Là thấy được toàn giác Như Lai,
Là thầy đạo sư của thế gian,
Là bậc chủ tạo ra ánh sáng.
Những người nghe được giáo pháp này,
Với lòng tôn kính và kính trọng,
Họ sẽ đạt niềm vui tối thượng.
51. Không có khả năng, người thấp kém,
Với tầm nhìn lười biếng, sai lạc,
Lòng của họ chẳng có trong sạch,
Họ chẳng tin nơi giáo pháp này,
Là giáo pháp toàn giác của Phật.
Những ai đang sống trong cõi Phật,
Đang thực hiện các sự cúng dường,
Với Đạo Sư, Bậc Thầy Ba Cõi,
Hãy thực hành, học hỏi, rèn luyện,
Hiểu giáo pháp toàn giác của Phật.
52. Giống như người ở trong bóng tối,
Không có mắt, không khả năng nhìn,
Không biết được đường nào sáng tỏ,
Thì làm sao có thể chiếu sáng.
Cũng như vậy, ngay cả Thanh Văn,
Chẳng hiểu được trí tuệ toàn giác,
Thì chúng sanh nay làm sao hiểu,
Biết hết được toàn giác của Phật.
53. Quả thật chỉ có các đức Phật,
Mới hiểu được công đức toàn giác,
Các hàng Thanh Văn và chư thiên,
Loài rồng, A Tu La, Dạ Xoa,
Làm sao biết được pháp toàn giác.
Thậm chí các vị Độc Giác Phật,
Chẳng hiểu rõ được những điều này,
Chẳng chói sáng được trí toàn giác.
54. Nếu tất cả chúng sanh bình đẳng,
Trí tuệ thanh tịnh, lòng trong sạch,
Lý tối thượng thông suốt hiểu rõ,
Thậm chí họ trong hàng tỷ kiếp,
Cũng không thể mô tả kể ra,
Phẩm chất công đức toàn giác Phật.
55. Dù trải qua trong hàng tỷ kiếp,
Tất cả họ đều được an lạc,
Trí tuệ họ chói sáng liên tục,
Chẳng thể biết giới hạn toàn giác,
Là trí tuệ Như Lai Thiện Thệ.
56. Do đó, với những người thông thái,
Có trí tuệ chói sáng lòng tin,
Hãy tin tưởng tôn trọng lời ta,
Người như vậy hoàn toàn đầy đủ,
Đi trên đường toàn giác Như Lai,
Là hiểu được lời dạy của Phật.
57. Hiếm khi thỉnh thoảng mới gặp được,
Hiếm khi Phật xuất hiện thế gian,
Lòng tin trí tuệ khó có được,
Hãy tin tấn nỗ lực đạt lấy.
58. Những người nào nghe pháp tối thượng,
Lòng họ vui thích nhớ Như Lai,
Tất cả họ ta đều là bạn,
Trên con đường tỉnh thức toàn giác.
45. Khi bài pháp này được các đức Như Lai thuyết giảng, có 12.000 tỷ tỷ tỷ chúng sanh được mắt pháp thanh tịnh, không còn dục vọng và ô nhiễm trong các pháp; có 24.000 triệu tỷ tỷ chúng sanh được đắc quả; có 800 vị Tỷ Kheo tâm trí được giải thoát, không còn tham dục, thoát khỏi vòng dục vọng; có 250 triệu Bồ Tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn; có 4000 tỷ tỷ tỷ tỷ chư thiên và loài người, từ trước tới nay chưa từng sinh tâm, nay đã phát tâm chánh đẳng chánh giác vô thượng, đều trồng các căn lành, muốn tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī để được gặp đức Phật Amitābha Như Lai. Tất cả những người sẽ được tái sinh về thế giới Cực Lạc, đều là những người hiện đang nghe giảng pháp ở tại đây, và ở tại chỗ của đức Phật Mỹ Âm Như Lai, và ở chỗ của các đức Phật Như Lai khác. Trong số đó, có 80.000 tỷ tỷ tỷ chúng sanh, trong quá khứ đã từng phát nguyện Bồ Tát, nhưng trong thời của đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, họ đã đắc được pháp nhẫn và mắc kẹt vào đó, và không thể nào quay trở lại con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được nữa, nhưng do họ có nhân duyên đã từng được đức Phật Amitābha Như Lai lúc còn làm Bồ Tát nuôi dưỡng thuở quá khứ, và hôm nay khi nghe được bài giảng pháp này, họ cũng sẽ được tái sinh về thế giới Cực Lạc Sukhāvatī, và sẽ có thể tiếp tục hoàn thành các bổn nguyện Bồ Tát thuở xưa.
46. Tại thời điểm đó, trong 3000 đại thiên thế giới này có sáu thứ rung chuyển, thấy được nhiều hiện tượng kỳ diệu xuất hiện, mặt đất trở nên thanh tịnh đẹp đẽ, âm nhạc của chư thiên và loài người vang lên khắp nơi, và âm thanh tán thán vang đến tận cõi trời A-ka-niṣ-ṭha.
47. Điều này đã được đức Thế Tôn nói đến với tâm hoan hỷ, A-ji-ta Đại Bồ Tát, Trưởng lão Ā-nan-đa, cùng toàn thể hội chúng, bao gồm chư thiên, loài người, A Tu La, Ga-ru-đa và Gan-đa-va đã hoan hỷ và tán dương lời dạy của Đức Thế Tôn.
Đây là Kinh Đại Thừa miêu tả công đức của thế giới Cực Lạc Sukhāvatī và đức Phật Amitābha Như Lai, hướng dẫn cách để các chúng sanh tỉnh thức nhập vào địa không còn thoái chuyển, hiểu cách xoay chuyển về tự tánh Vô Lượng Quang A-mi-tā-bha của chính mình, và cách trang nghiêm thế giới Hạnh Phúc Cực Lạc Sukhāvatī cho chính mình.
Các pháp phát sinh do nhân duyên,
Nguyên nhân của chúng, Phật đã dạy.
Và cách chấm dứt các pháp đó,
Bậc Đại Thanh Tịnh dạy như vậy.
Sukhāvatīvyūhaḥ (vistaramātṛkā)
sukhāvatīvyūhaḥ |
[vistaramātṛkā]
om namo ratnatrayāya | om namaḥ śrīsarvabuddhabodhisattvebhyaḥ | namo daśadiganantāparyantalokadhātupratiṣṭhitebhyaḥ sarvabuddhabodhisattvāryaśrāvakapratyekabuddhebhyo'tītānāgatapratyutpannebhyaḥ | namo'mitābhāya | namo'cintyaguṇāntarātmane ||
evaṃ mayā śrutam | ekasmin samaye bhagavān rājagṛhe viharati sma gṛdhrakūṭaparvate mahatā bhikṣusaṃghena sārdhaṃ dvātriṃśatā bhikṣusahasraiḥ, sarvairarhadbhiḥ kṣīṇāsravairniḥkleśairuṣitavadbhiḥ samyagājñāsuvimuktacittaiḥ parīkṣacittaiḥ parikṣīṇabhavasaṃyojanairanuprāptasvakārthairvijitavadbhiruttamadamathaprāptaiḥ suvimuktacittaiḥ suvimuktaprajñairmahānāgaiḥ ṣaḍabhijñairvaśībhūtairaṣṭavimokṣadhyāyibhirbalaprāptairabhijñātābhijñaiḥ sthavirairmahāśrāvakaiḥ | tadyathā-ājñātakauṇḍinyena ca, aśvajitā ca, bāṣpeṇa ca, mahānāmnā ca, bhadrajitā ca, yaśodevena ca, vimalena ca, subāhunā ca, pūrṇamaitrāyaṇīputreṇa ca, urubilvākāśyapena ca, nadīkāśyapena ca, gayākāśyapena ca, kumārakāśyapena ca, mahākāśyapena ca, śāriputreṇa ca, mahāmaudgalyāyanena ca, mahākauṣṭhilyena ca, mahākaphilena ca, mahācundena ca, aniruddhena ca, nandikena ca, kampilena ca, subhūtinā ca, revatena ca, khadiravanikena ca, vakulena ca, svāgatena ca, amogharājena ca, pārāyaṇikena ca, patkena ca, cullapatkena ca, nandena ca, rāhulena ca, āyuṣmatānandena ca, etaiścānyaiśca abhijñātābhijñaiḥ sthavirairmahāśrāvakairekaṃ pudgalaṃ sthāpayitvā śaikṣapratidyuttarikaraṇīyaṃ yadidamāyuṣmantamānandam | maitreyapūrvaṃgamaiśca saṃbahulairbodhisattvairmahāsattvaiḥ || 1 ||
atha khalvāyuṣmānānda utthāyāsamādekāṃsamuttarāsaṅgaṃ kṛtvā dakṣiṇaṃ jānumaṇḍalaṃ pṛthivyāṃ pratiṣṭhāpya yena bhagavāṃstenāñjaliṃ praṇamya bhagavantametadavocat-viprasannāni tava bhagavata indriyāṇi, pariśuddhaśchavivarṇaḥ, paryavadāto mukhavarṇaḥ pītanirbhāsaḥ | tadyathāpi nāma śāradaṃ vanadaṃ pāṇḍupariśuddhaṃ paryavadātaṃ pītanirbhāsam, evameva bhagavato viprasannānīndriyāṇi, pariśuddho mukhavarṇaḥ, paryavadātaśchavivarṇaḥ pītanirbhāsaḥ | tadyathāpi nāma bhagavan jāmbūnadasuvarṇaniṣko dakṣeṇa karmāreṇa karmārāntevāsinā vā ulkāmukhena saṃpraveśya supariniṣṭhitaḥ pāṇḍukambala uparinikṣipto'tīva pariśuddho bhavati paryavadātaḥ pītanirbhāsaḥ, evameva bhagavato ciprasannānīndriyāṇi, pariśuddho mukhavarṇaḥ, paryavadātaśchavivarṇaḥ pītanirbhāsaḥ | na khalu punarahaṃ bhagavan abhijānāmi itaḥ pūrvataramevaṃ viprasannāni tathāgatasyendriyāṇi evaṃ poariśuddhaṃ mukhavarṇaṃ paryavadātaṃ chavivarṇaṃ pītanirbhāsam | tasya me bhagavan evaṃ bhavati-buddhavihāreṇa batādya tathāgato vihārati, jinavihāreṇa sarvajñatāvihāeṇa | mahānāgavihāreṇa batādya tathāgato viharati | atītānāgatapratyutpannān vā tathāgatānarhataḥ samyaksaṃbuddhān samanusmaratīti | evamukte bhagavānāyuṣmantamānandametadavocat-sādhu sādhvānanda | kiṃ punaste devatā etamarthamārocayanti, utāho buddhā bhagavntaḥ ? atha tena pratyutpannamīmāṃsājñānenaivaṃ prajānāsīti ? evamukte āyuṣmānānando bhagavantametadavocat-na me bhagavan devatā etamarthamārocayanti, nāpi buddhā bhagavantaḥ | atha tarhi me bhagavaṃstenaiva pratyātmamīmāṃsājñānenaivaṃ bhavati-buddhavihāreṇādya tathāgato viharati | jinavihāreṇa sarvajñatāvihāreṇa batādya tathāgato viharati | atītānāgatapratyutpannān vā buddhān bhagavataḥ samanusmaratīti |evamukte bhagavānāyuṣmantamānandametadavocat-sādhu sādhvānanda | udāraḥ khalu te unmiñjaḥ, bhadrikā mīmāṃsā, kalyāṇaṃ pratibhānam | bahujanahitāya tvamānanda pratipanno bahujanasukhāya lokānukampāyai mahato janakāyayārthāya hitāya sukhāya devānāṃ ca manuṣyāṇāṃ ca, yastvaṃ tathāgatamarthaṃ paripraṣṭavyaṃ manyase | evameva bhagavatsu ānandastathāgateṣvarhatsu samyaksaṃbuddheṣu aprameyeṣu asaṃkhyeyeṣu jñānadarśanamupasaṃharet, na tathāgatasya jñānamupahanyeta | tatkasya hetoḥ ? apratihatahetujñānadarśano hyānanda tathāgataḥ | jñānamākāṅkṣannānanda tathāgataḥ ekapiṇḍapātena kalpaṃ vā tiṣṭhet kalpaśataṃ vā kalpaśatasahasraṃ vā yāvatkalpakoṭīniyutaśatasahasraṃ vā, tato vottari tiṣṭhet, na ca tathāgatasyendriyāṇyupanaśyeyuḥ, na mukhavarṇasyānyathātvaṃ bhavet, nāpi cchavivarṇa upahanyeta | tatkasya hetoḥ ? tathā hi ānanda tathāgataḥ samādhimukhapāramitāprāptaḥ | samyaksaṃbuddhānāmānanda loke sudurlabhaḥ prādurbhāvaḥ | tadyathā audumbarapuṣpāṇāṃ loke prādurbhāvaḥ sudurlabho bhavati, evameva ānanda tathāgatānāmarthakāmānāṃ hitaiṣīṇāmanukampakānāṃ mahākaruṇāpratipannānāṃ sudurlabhaḥ prādurbhāvaḥ | api tu khalvānanda tathāgatasyaiva so'nubhāvo yastvaṃ sarvalokācāryāṇāṃ sattvānāṃ loke prādurbhāvāya bodhisattvānāṃ mahāsattvānāmarthāya tathāgatametamarthaṃ paripraṣṭavyaṃ manyase | tena hyānanda śṛṇu, sādhu ca suṣṭhu ca manasikuru | bhāṣiṣye'haṃ te | evaṃ bhagavan ityāyuṣmānānando bhagavataḥ pratyaśrauṣīt || 2 ||
bhagavānānandametadavocat-bhūtapūrvamānanda atīte'dhvani ito'saṃkhyeye kalpe'saṃkhyeyatare vipule'prameye'cintye yadāsīt | tena kālena tena samayena dīpaṃkaro nāma tathāgato'rhan samyaksaṃbuddho loka udapādi | dīpaṃkarasyānanda pareṇa parataraṃ pratāpavānnāma tathāgato'bhūt | tasya pareṇa parataraṃ prabhākaro nāma tathāgato'bhūt | tasya pareṇa parataraṃ candanagandho nāma tathāgato'bhūt | tasya pareṇa parataraṃ sumerukalpo nāma tathāgato'bhūt | evaṃ candano nāma, vimalānano nāma, anupalipto nāma, vimalaprabho nāma, nāgābhibhūrnāma, sūryodano nāma, girirājaghoṣo nāma, merukūṭo nāma, suvarṇaprabho nāma, jyotiṣprabho nāma, vaiḍūryanirbhāso nāma, brahmaghoṣo nāma, candrābhibhūrnāma, tūryaghoṣo nāma, muktakusumapratimaṇḍitaprabho nāma, śrīkūṭo nāma, sāgaravarabuddhivikrīḍitābhijño nāma, varaprabho nāma, mahāgandharājanirbhāso nāma, vyapagatakhilamalapratighoṣo nāma, śūrakūṭo nāma, raṇaṃjaho nāma, mahāguṇadharabuddhiprāptābhijño nāma, candrasūryajihmīkaraṇo nāma, uttaptavaiḍūryanirbhāso nāma, cittadhārābuddhisaṃkusumitābhyudgato nāma, puṣpāvatīvanarājasaṃkusumitābhijño nāma, puṣpākaro nāma, udakacandro nāma, avidyāndhakāravidhvaṃśanakaro nāma, lokendro nāma, muktacchtrapravātasadṛśo nāma, tiṣyo nāma, dharmamativinanditarājo nāma, siṃhasāgarajūūṭavinanditarājo nāma, sāgaramerucandro nāma, bramhasvaranādābhinandito nāma, kusumasaṃbhavo nāma prāptaseno nāma, candrabhānurnāma, candraprabho nāma, vimalanetro nāma, girirājaghoṣośvaro nāma, kusumaprabho nāma, kusumavṛṣṭyabhiprakīrṇo nāma, ratnacandro nāma, padmabimbyupaśobhito nāma, candanagandho nāma, ratnābhibhāso nāma nimirnāma, mahāvyūho nāma, vyapagatakhiladoṣo nāma, bramhaghoṣo nāma, saptaratnābhivṛṣṭo nāma, mahāguṇadharo nāma, mahātamālapatracandanakardamo nāma, kusukābhijño nāma, ajñānavidhvaṃsano nāma, kesarī nāma, muktacchatro nāma, suvarṇagarbho nāma, vaiḍūryagarbho nāma, mahāketurnāma, dharmaketurnāma, ratnaketurnāma, ratnaśrīrnāma, kolendro nāma, narendro nāma, kāruṇiko nāma, lokasundaro nāma, bramhaketurnāma, dharmaketurnāma, siṃho nāmasiṃhamatirnāma | siṃhamaterānanda pareṇa parataraṃ lokeśvararājo nāma tathāgato'rhan samyaksaṃbuddho loka udapādi vidyācaraṇasaṃpannaḥ sugato lokavidanuttaraḥ puruṣadamyasārathiḥ śāstā devānāṃ ca manuṣyāṇāṃ ca buddho bhagavān | tasya khalu punarānanda lokeśvararājasya tathāgata, syārhataḥ samyaksaṃbuddhasya pravacane dharmākaro nāma bhikṣubhūdadhimātraṃ smṛtimān matimān gatimān prajñāvan, adhimātraṃ vīryavān udārādhimuktikaḥ || 3 ||
atha khalvānanda sa dharmākaro bhikṣurutthāyāsanādekāṃsamuttarāsaṅgaṃ kṛtvā dakṣiṇajānumaṇḍalaṃ pṛthivyāṃ pratiṣṭhāpya yenāsau bhagavāllokeśvararājastathāgatastenāñjaliṃ praṇamya bhagavantaṃ namaskṛtya tasminneva samaye saṃmukhamābhirgāthābhirabhyaṣṭāvīt -
amitaprabha anantatulyabuddhe
na ca iha anya prabhā vibhāti kācit |
sūryamaṇigirīśacandraābhā
na tapita bhosiṣu ebhi sarvaloke || 1 ||
rūpamapi anantu attvasāre
tatha api buddhasvaro anantaghoṣaḥ |
śīlamapi samādhiprajñavīryaiḥ
sadṛśu na te'stiha loki kaścidanyaḥ || 2 ||
gabhiru vipulu sūkṣmaprāptu dharmo-
'cintitu buddhavaro yathā samudraḥ |
tenonnamanā na cāsti śāstuḥ
khiladoṣān jahyā ato'dhikālam || 3 ||
atha buddhabalā anantatejā
pratapati sarvadiśā narendrarājā |
tatha ahu buddha bhavi dharmasvāmī
jaramaraṇātprajāṃ pramocayeyam || 4 ||
dānaśamathaśīlakṣāntivīrya
dhyānasamādhitaścaiva agraśreṣṭhāṃ |
ebhi ahu vratāṃ samādadāmi
buddha bhaviṣyami sarvasattvatrātā || 5 ||
buddhaśatasahasra koṭyanekā
yathariva vālika gaṅgayā anantā |
sarvata ahu pūjayiṣya nāthāṃ
śivavarabodhigaveṣako atulyāṃ || 6 ||
gaṅgārajasamānalokadhātūṃ
tatra bhūyo'ntari ye anantakṣetrāḥ |
sarvatra prabha muñcayiṣya tatrā
iti etādṛśa vīryamārabhidhya || 7 ||
kṣetra mama udāru agra śreṣṭho
varamiha malī(?) saṃskṛte'smiṃ |
asadṛśa nirvāṇadhātusaukhyaṃ
taśca(cca ?) asattvatayā viśodhayiṣye || 8 ||
daśadiśata samāgatāni sattvāḥ
tatra gatā sukha me diśanti kṣipram |
buddha mama pramāṇu atra śikṣī
avitathavīryabalaṃ janemi chandam || 9 ||
daśadiśalokavidasaṅgajñānī
sada mama citta prajānayanti te'pi |
avicigatu ahaṃ sadā vaseyaṃ
praṇidhibalaṃ na punarvivartayiṣye || 10 ||
atha khalvānanda sa dharmākaro bhikṣustaṃ bhagavantaṃ lokeśvararājaṃ tathāgataṃ saṃmukhamābhirgāthābhirabhiṣṭutya etadavocat-ahamasmi bhagavan uttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃboddhukāmaḥ | punaḥ punaranuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau cittamutpādayāmi pariṇāmayāmi | tasya me bhagavān śāstā tathā dharmaṃ deśayatu, yathāhaṃ kṣipramanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam | asamasamastathāgato loke bhaveyam | tāṃśca bhagavānākārān parikīrtayatu yairahaṃ buddhakṣetrasya guṇavyūhasaṃpadaṃ parigṛhṇīyām | evamukte ānanda bhagavāllokeśvararājastathāgatastaṃ bhikṣumetadavocat-tena hi tvaṃ bhikṣo svayameva buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadaṃ parigṛhṇīṣva | so'vocat-nāhaṃ bhagavaṃstatsaheyam, api tu bhagavāneva | bhāṣasva anyeṣāṃ tathāgatānāṃ buddhakṣetraguṇavyūhālaṃkārasaṃpadam, yāṃ śrutvā vayaṃ sarvākāraṃ paripūrayiṣyāma iti | athānanda sa lokeśvararājastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhastasya bhikṣurāśayaṃ jñātvā paripūrṇāṃ varṣakoṭīmekāśītibuddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇāṃ buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadaṃ sākārāṃ soddeśāṃ sanirdeśāṃ saṃprakāśitavānarthakāmo hitaiṣī anukampako'nukampāmupādāya buddhakṣetrānupacchedāya sattveṣu mahākaruṇāṃ saṃjanayitvā | paripūrṇāścatvāriṃśatkalpāstasya bhagavatastathāgatasyāyuḥpramāṇam || 5 ||
atha khalvānanda sa dharmākaro bhikṣuryāsteṣāmekāśītibuddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇāṃ buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadaḥ, tāḥ sarvā eke buddhakṣetre parigṛhya bhagavato lokeśvararājasya tathāgatasya pādau śirasā vanditvā pradakṣiṇīkṛtya tasya bhagavato'ntikātprākrāmat | uttari ca pañca kalpān buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadamudāratarāṃ praṇītatarāṃ ca sarvaloke daśasu dikṣu apracaritapūrvāṃ parigṛhītavān, udārataraṃ ca praṇidhānamakārṣīt || 6 ||
iti hyānanda yā tena bhagavatā lokeśvararājena tathāgatena teṣāmekāśītibuddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrāṇāṃ saṃpattiḥ kathitā, tato bhikṣurekāśītyudārapraṇītāprameyatarāṃ buddhakṣetrasaṃpattiṃ parigṛhya yena sa tathāgatastenopasaṃkramya bhagavataḥ pādau śirasā vanditvā etadavocat-parigṛhītā me bhagavan buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpaditi | evamukte ānanda sa lokeśvararājastathāgatastaṃ bhikṣumetadavocat-tena hi bhikṣo bhāṣasva, anumodate tathāgataḥ | ayaṃ kālo bhikṣo, pramodaya parṣadam, harṣaṃ janaya, siṃhanādaṃ nada, yaṃ śrutvā bodhisattvā mahāsattvā etarhyanāgate'dhvani evaṃrūpāṇi buddhakṣetraguṇasaṃpattipraṇidhisthānāni parigrahīṣyanti | athānanda sa dharmākaro bhikṣustasyāṃ velāyāṃ bhagavantametadavocat-tena hi śṛṇotu me bhagavān ye mama praṇidhānaviśeṣāḥ, yathā me'nuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya acintyaguṇālaṃkāravyūhasamanvāgataṃ tad buddhakṣetraṃ bhaviṣyati || 7 ||
1. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre nirayo vā tiryagyonirvā pretaviṣayo vā āsuro vā kāyo bhavet, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
2. sacenme bhagavaṃstasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te punastataścyutvā nirayaṃ vā tiryagyoniṃ vā pretaviṣayaṃ vā āsuraṃ vā kāyaṃ prapateyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
3. sacenme bhagavaṃstatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāste ca sarve naikavarṇāḥ syuryadidaṃ suvarṇavarṇāḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
4. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre devānāṃ ca manuṣyāṇāṃ ca nānātvaṃ prajñāyeta anyatra nāma saṃvṛtivyavahāramātrā devamanuṣyā iti saṃkhyāgaṇanātaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
5. sacenme bhagavaṃtasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāḥ, te ca sarve na ṛddhivaśitāparamapāramitāprāptā bhaveyuḥ, antaśa ekacittakṣaṇalavena buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrātikramaṇatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
6. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te ca sarve jātismarā na syuḥ, antaśaḥ kalpakoṭīniyutaśatasahasrānusmaraṇatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
7. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na divyasya cakṣuṣo lābhino bhaveyuḥ, antaśo lokadhātukoṭīniyutaśatasahasradarśanatayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
8. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na divyasya śrotrasya lābhino bhaveyuḥ, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrādapi yugapatsaddharmaśravaṇatayā, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
9. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na paracittajñānakovidā bhaveyuḥ, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasraparyāpannānāmapi sattvānāṃ cittacaritaparijñānatayā, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
10. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, teṣāṃ kācitparigrahasaṃjñotpadyeta, antaśaḥ svaśarīre'pi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
11. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājāyeran, te sarve na niyatāḥ syuryādidaṃ samyaktve yāvanmahāparinirvāṇe, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
12. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya kaścitsattvaḥ śrāvakāṇāṃ gaṇanāmadhigacchet, antaśastrisāhasramahāsāhasraparyāpannā api sarvasattvāḥ pratyekabuddhabhūtāḥ kalpakoṭīniyutaśatasahasramabhigaṇayantaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
13. sacenme bhagavaṃstasmin buddhakṣetre anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya pramāṇikī me prabhā bhavet, antaśo buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrapramāṇenāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
14. sacenme bhagavannanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya tasmin buddhakṣetre sattvānāṃ pramāṇīkṛtamāyuṣpramāṇaṃ bhavet, anyatra praṇidhānavaśena, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
15. sacenme bhagavan bodhiprāptasyāyuṣpramāṇaṃ paryantīkṛtaṃ bhavet, antaśaḥ kalpakoṭīniyutaśatasahasragaṇayāpi, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
16. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tasmin buddhakṣetre sattvānāmakuśalasya nāmadheyamapi bhavet, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
17. sacenme bhagavan bodhiprāptasya nāpramayeṣu buddhakṣetreṣu aprameyāsaṃkhyeyā buddhā bhagavanto nāmadheyaṃ parikīrtayeyuḥ, na varṇaṃ bhāṣeran, na praśaṃsāmabhyudīrayeran, na samudīrayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
18. sacenme bhagavan bodhiprāptasya ye sattvā anyeṣu lokadhātuṣvanuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau cittamutpādya mama nāmadheyaṃ śrutvā prasannacittā māmanusmareyuḥ, teṣāṃ cedahaṃ maraṇakālasamaye pratyupasthite bhikṣusaṃghaparivṛtaḥ puraskṛto na puratastiṣṭheyaṃ yadidaṃ cittāvikṣepatāyai, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
19. sacenme bhagavan bodhiprāptasya aprameyāsaṃkhyeyeṣu buddhakṣetreṣu ye sattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā tatra buddhakṣetre cittaṃ prerayeyuḥ, upapattaye kuśalamūlāni ca pariṇāmayeyuḥ, te tatra buddhakṣetre nopapadyeran, antaśo daśabhiścittotpādaparivartaiḥ sthāpayitvā ānantaryakāriṇaḥ saddharmapratikṣepāvaraṇakṛtāṃśca sattvān, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
20. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve naikajātipratibaddhāḥ syuranuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau sthāpayitvā praṇidhānaviśeṣān, teṣāmeva bodhisattvānāṃ mahāsattvānāṃ mahāsaṃnāhasaṃnaddhānāṃ sarvalokārthasaṃbuddhānāṃ sarvalokābhiyuktānāṃ sarvalokaparinirvāṇābhiyuktānāṃ sarvalokadhātuṣu bodhisattvacaryāṃ caritukāmānāṃ sarvabuddhānāṃ saṃvartukāmānāṃ gaṅgānadīvālukāsamān sattvān anuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau pratiṣṭhāpakānāṃ bhūyaśca uttaracaryābhimukhānāṃ samantabhadracaryāniryātānām, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
21. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve ekapurobhaktena anyāni buddhakṣetrāṇi gatvā bahūni buddhaśatāni bahūni buddhasahasrāṇi bahūni buddhaśatasahasrāṇi bahvīrbuddhakoṭīryāvadbahūni buddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇi nopatiṣṭheran sarvasukhopadhānaiḥ tadidaṃ buddhānubhāvena, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
22. sacenme bhagavan bodhiprāptasta tatra buddhakṣetre bodhisattvā yathārūpairākārairākāṅkṣeyuḥ kuśalamūlānyavaropayituṃ yadidaṃ suvarṇena vā rajatena vā maṇimuktāvaiḍūryaśaṅkhaśilāpravālasphaṭikamusāragalvalohitamuktāśmagarbhādibhirvā anyatamānyatamaiḥ sarvai ratnairvā sarvagandhapuṣpamālyavilepanadhūpacūrṇacīvaracchatradhvajapatākāpradīpairvā sarvanṛtyagītavādhairvā, teṣāṃ ca tathārūpā āhārāḥ sahacittotpādānna prādurbhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
23. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarva na sarvajñatāsahagatāṃ dharmakathāṃ kathayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
24. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvā evaṃ cittamutpādayeyuḥ-yadihaiva vayaṃ lokadhātau sthitvā aprameyāsaṃkhyeyeṣu buddhakṣetreṣu buddhān bhagavataḥ satkuryām gurukuryām mānayema pūjayema yadidaṃ cīvarapiṇḍapātraśayanāsanaglānapratyayabhaiṣajyapariṣkāraiḥ puṣpadhūpadīpagandhamālyavilepanacūrṇacīvaracchatradhvajapatākābhirnānāvidhanṛtyagītavādyai ratnavarṣairiti, teṣāṃ ca buddhā bhagavantaḥ sahacittotpādānna pratigṛhṇīyuryadidamanukampāmupādāya, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
25. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ, te sarve na nārāyaṇavajrasaṃhatātmabhāvasthāmapratilabdhā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
26. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre yaḥ kaścitsattvo'laṃkārasya varṇaparyantamudgṛhṇīyāt-antaśo divyenāpi cakṣuṣā evaṃvarṇamevaṃvibhūti idaṃ buddhakṣetramiti nānāvarṇatāṃ jānīyāt, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
27. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre yaḥ sarvaparīttakuśalamūlo bodhisattvaḥ so'ntaśo yojanaśatotthitamudāravarṇaṃ bodhivṛkṣaṃ na saṃjānīyāt, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
28. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre kasyacitsattvasyoddeśo vā svādhyāyo vā kartavyaḥ syāt, na te sarve pratisaṃvitprāptā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
29. sacenme bhagavan bodhiprāptasya naivaṃ prabhāsvaraṃ tadbuddhakṣetraṃ bhavedyatra samantādaprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇāni buddhakṣetrāṇi saṃdṛśyeran tadyathāpi nāma parimṛṣṭe ādarśamaṇḍale mukhamaṇḍalam, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
30. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre dharaṇītalamupādāya yāvadantarīkṣāddevamanuṣyaviṣayātikrāntasyābhijātasya dhūpasya tathāgatabodhisattvapūjāpratyarhasya sarvaratnamayāni nānāsurabhigandhaghaṭikāśatasahasrāṇi sadā nidhūpitānyava na syuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
31. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre na sadābhipravṛṣṭānyeva sugandhinānāratnapuṣpavarṣāṇi sadā pravāditāśca manojñasvarā vādyameghā na syuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
32. sacenme bhagavan bodhiprāptasya ye sattvā aprameyāsaṃkhyeyācinyātulyeṣu lokadhātuṣvābhayā sphuṭā bhaveyuḥ, te sarve na devamanuṣyasamatikrāntena sukhena samanvāgatā bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
33. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantādaprameyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu bodhisattvā mahāsattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā tacchravaṇasahagatena kuśalena jātivyativṛttāḥ santo na dhāraṇīpratilabdhā bhaveyuryāvadbodhimaṇḍaparyantamiti, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
34. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantādaprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu yāḥ striyo mama nāmadheyaṃ śrutvā pramādaṃ saṃjanayeyuḥ, bodhicittaṃ notpādayeyuḥ, strībhāvaṃ ca na vijugupseran, jātivyativṛttāḥ samānāḥ saceddvitīyaṃ strībhāvaṃ pratilabheran, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
35. sacenme bhagavan bodhiprāptasya samantāddaśasu dikṣu aprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇeṣu buddhakṣetreṣu ye bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā praṇipatya pañcamaṇḍalanamaskāreṇa vandiṣyante te bodhisattvacaryāṃ caranto na sadevakena lokena satkriyeran, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
36. sacenme bhagavan bodhiprāptasya kasyacidbodhisattvasya cīvaradhāvanaśoṣaṇasīvanarañjanakarma kartavyaṃ bhavet, na tveva navābhijātacīvararatnaiḥ prāvṛtamevātmānaṃ saṃjānīyuḥ sahacittotpādāttathāgatānujñātaiḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
37. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre sahotpannāḥ sattvā naivaṃvidhaṃ sukhaṃ pratilabheraṃstadyathāpi nāma niṣparidāhasyārhato bhikṣostṛtīyadhyānasamāpannasya, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
38. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātāḥ, te yathārūpaṃ buddhakṣetre guṇālaṃkāravyūhamākāṅkṣeyuḥ, tathārūpaṃ nānāratnavṛkṣebhyo na saṃjanayeyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
39. sacenme bhagavan bodhiprāptasya mama nāmadheyaṃ śrutvā anyabuddhakṣetropapannā bodhisattvā indriyabalavaikalyaṃ gaccheyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
40. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyabuddhakṣetrasthāne bodhisattvā mama nāmadheyasahaśravaṇānna suvibhaktavatīṃ nāma samādhiṃ pratilabheran, yatra samādhau sthitvā bodhisattvā ekakṣaṇavyatihāreṇa aprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāparimāṇān buddhān bhagavataḥ paśyanti, sa caiṣāṃ samādhirantarā vipraṇaśyet, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
41. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyeṣu buddhakṣetreṣu mama nāmadheyaṃ śrutvā tacchravaṇasahagatena kuśalamūlena sattvā nābhijātakulopapattiṃ pratilabheran yāvadbodhiparyantam, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
42. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tadanyeṣu buddhakṣetreṣu ye bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śrutvā tacchravaṇakuśalamūlena yāvadbodhiparyantaṃ te sarve bodhisattvacaryāprītiprāmodyakuśalamūlasamavadhānagatā na bhaveyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
43. sacenme bhagavan bodhiprāptasya sahanāmadheyaśravaṇāttadanyeṣu lokadhātuṣu bodhisattvā na samantānugataṃ nāma samādhiṃ pratilabheran, yatra sthitvā bodhisattvā ekakṣaṇavyatihāreṇa aprameyāsaṃkhyeyācinyātulyāparimāṇān buddhān bhagavataḥ satkurvanti, sa caiṣāṃ samādhirantarā vipraṇaśyedyāvadbodhimaṇḍaparyantam, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
44. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātā bhaveyuḥ te yathārūpāṃ dharmadeśanāmākāṅkṣeyuḥ śrotum, tathārūpāṃ sahacittotpādānna śṛṇuyuḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
45. sacenme bhagavan bodhiprāptasya tatra buddhakṣetre tadanyeṣu buddhakṣetreṣu ye ca bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sahanāmadheyaśravaṇānnāvaivartikā bhaveyuranuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyeyam ||
46. sacenme bhagavan bodhiprāptasya buddhaśāsturbuddhakṣetreṣu te bodhisattvā mama nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sahanāmadheyaśravanātprathamadvitīyatṛtīyāḥ kṣāntīḥ pratilabheran nāvaivartikā bhaveyurbuddhadharmasaṃghebhyaḥ, mā tāvadahamanuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhibudhyeyam ||8||
atha khalvānanda sa dharmākaro bhikṣurimānevaṃrūpān praṇidhānaviśeṣānnirdiśya tasyāṃ velāyām buddhānubhāven imā gāthā abhāṣata—
saci mi [siya] viśiṣṭa naivarūpā
varapraṇidhāna siyā khu bodhiprāpto |
māha siya gavendrasattvasāro
daśabaladhāri atulyadakṣiṇīyaḥ ||11||
saci mi siya na kṣetra evarūpaṃ
bahu adha nānaprabhūtadivyavittam |
sukhita naraka yeya duḥkhaprāpto
māha siyā ratanāna [loka]rājā||12||
saci mi upagatasya bodhimaṇḍaṃ
daśadiśi pravraji nāmadheyu kṣipram |
pṛthu bahava ananta buddhakṣetrā
māha siyā balaprāptu lokanāthaḥ ||13||
saci khu ahu rameya kāmabhogāṃ
smṛtimatiyā gatiyā vihīnu santaḥ |
atula śiva sameyamāna bodhiṃ
māha siyā balaprāptu śāstra loke ||14||
vipulaprabha atulyananta nātha
diśi vidiśi sphuri sarvabuddhakṣetrā |
rāga praśami sarvadoṣamohāṃ
narakagatismi praśāmi dhūmaketum ||15||
janiya suruciraṃ viśālanetraṃ
vidhuniya sarvanarāṇa andhakāram |
apaniya su na akṣaṇānaśeṣāṃ
upanayi svargagatānanantatejāṃ||16||
na tapati nabha candrasūryaābhā
maṇigaṇa agniprabhā na devatānām|
abhibhavati narendra ābha sarvāṃ
purimacariṃ pariśuddha ācaritvā||17||
puruṣavaru nidhāna duḥkhitānāṃ
diśi vidiśāsu na asti evarūpaḥ |
kuśalaśatasahasrasarvapūrṇa
parṣagaro nadi buddhasiṃhanādam||18||
purimajina svayaṃbhu satkaritvā
vratatapakoṭi caritva aprameyām|
pravaravarasame'smi jñānaskandha
praṇidhibalapratipūrṇa sattvasāro ||19||
yatha bhagava asaṅgajñānadarśī
trividha prajānati saṃskṛte narendraḥ|
ahamapi siya tulyadakṣiṇīyo
vidupravaro naranāyako narāṇām||20||
saci mi ayu narendra evarūpā
praṇidhi samṛdhyati bodhi prāpuṇitvā|
calatu aya sahasralokadhātu
kusumapravarṣaṇa bhātu devasaṃghāṃ||21||
pracalita vasudhā pravarṣi puṣpāḥ
tūryaśatā gagane'tha saṃpraṇeduḥ|
divyaruciracandanasya cūrṇā
avakiri caiva bhaviṣya loki buddhaḥ || 22|| iti|| 9||
evaṃrūpayā ānanda praṇidhānasaṃpadā sa dharmākaro bhikṣurbodhisattvo mahāsattvaḥ samanvāgato'bhūt| evaṃrūpayā cānanda praṇidhānasaṃpadā alpakā bodhisattvāḥ samanvāgatāḥ | alpakānāṃ caivaṃrūpāṇāṃ praṇidhīnāṃ loke prādurbhāvo bhavati parīttānām| na punaḥ sarvaśo nāsti| sa khalu punarānanda dharmākaro bhikṣustasya bhagavato lokeśvararājasya tathāgatasya purataḥ sadevakasya lokasya samārakasya sabrahmakasya saśramaṇabrāhmaṇikāyāḥ prajāyāḥ sadevamānuṣāsurāyāḥ purata imānevaṃrūpān praṇidhānaviśeṣānnirdiśya yathābhūtapratijñāpratipattipratiṣṭhito'bhūt| sa imāmevaṃrūpāṃ buddhakṣetrapariśuddhiṃ buddhakṣetramāhātmyaṃ buddhakṣetrodāratāṃ samudānayan bodhisattvacaryāṃ caran aprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāmāpyāparimāṇānabhilāpyāni varṣakoṭīniyutaśatasahasrāṇi na jātu kāmavyāpādavihiṃsāvitarkān vitarkitavān, na jātu kāmavyāpādavihiṃsāsaṃjñāmutpāditavān, na jātu rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyasaṃjñāmutpāditavān | sa daharamanohara eva surato'bhūtsukhasaṃvāso'dhivāsanajātīyaḥ subhagaḥ supoṣo'lpecchaḥ saṃtuṣṭaḥ pravivikto'duṣṭo'mūḍho'śaṅko'jihmo'śaṭho'māyāvī sukhilomaḥ priyālāpo nityābhiyuktaḥ śukladharmaparyeṣṭau sunikṣiptadhuraḥ sarvasattvānāmarthāya mahāpraṇidhānaṃ samudānitavān buddhadharmasaṃghācāryopādhyāyakalyāṇamitrasagauravo nityasaṃnaddho bodhisattvacaryāyāmārjavo mārdavo'kuhako'nilapako guṇavān pūrvaṃgamaḥ sarvakuśaladharmasamādāpanatāyai śūnyatānimittāpraṇihitānabhisaṃskārānutpādavihārairnirmānaḥ svārakṣitavākyaścābhūt| bodhisattvacaryāṃ caran sa yadvākkarmotsṛṣṭamātmaparobhayavyāpādāya saṃvartate, tathāvidhaṃ tyaktvā yadvākkarma svaparobhayahitasukhasaṃvartakaṃ tadevābhiprayuktavān| evaṃ ca samprajāno'bhūt yadgrāmanagaranigamajanapadarāṣṭrarājadhānīṣvavataranna jātu rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmeṣvanunīto'bhūdapratihataḥ | sa bodhisattvacaryāyāṃ caran svayaṃ ca dānapāramitāyāmacarat parāṃśca tatraiva samādāpitavān, svayaṃ ca śīlakṣāntivīryadhyānaprajñāpāramitāsvacarat, parāṃśca tatraiva samādāpitavān | tathārūpāṇi ca kuśalamūlāni samudānītavān, yaiḥ samanvāgato yatrayatropapadyate, tatra tatra asyānekāni nidhānakoṭīniyutaśatasahasrāṇi dharaṇyāḥ prādurbhavanti| tena bodhisattvacaryāṃ caratā tāvadaprameyāsaṃkhyeyāni sattvakoṭīniyutaśatasahasrāṇyanuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau pratiṣṭhāpitāni, yeṣāṃ na sukaraṃ vākkarmaṇā paryantamadhigantum| tāvadaprameyāsaṃkhyeyā buddhā bhagavantaḥ satkṛtā gurukṛtā mānitāḥ pūjitāścīvarapiṇḍapātraśayanāsanaglānapratyayabhaiṣajyapariṣkāraiḥ sarvasukhopadhānasparśavihāraiḥ pratipāditāḥ | yāvantaḥ sattvāḥ śreṣṭhigṛhapatyamātyakṣatriyabrāhmaṇamahāśālakuleṣu pratiṣṭhāpitāḥ, teṣāṃ na sukaro vākkarmanirdeśena paryanto'dhigantum | evaṃ jāmbūdvīpeśvarāśca pratiṣṭhāpitāścakravartitve lokapālatve śakratve suyāmatve sutuṣitatve sunirmitatve suvaśavartitve devarājatve mahābrahmatve ca pratiṣṭhāpitāḥ | tāvadaprameyāsaṃkhyeyā buddhā bhagavantaḥ satkṛtā gurukṛtā mānitāḥ pūjitāścīvarapiṇḍapātraśayanāsanaglānapratyayabhaiṣajyapariṣkāraiḥ sarvasukhopadhānasparśavihāraiḥ pratipāditāḥ| yāvantaḥ sattvāḥ śreṣṭhigṛhapatyamātyakṣatriyabrāhmaṇamahāśālakuleṣu pratiṣṭhāpitāḥ, teṣāṃ na sukaro vākkarmanirdeśena paryanto'dhigantum | evaṃ jāmbūdvīpeśvarāśca pratiṣṭhāpitāścakravartitve lokapālatve śakratve suyāmatve sutuṣitatve sunirmitatve vaśavartitve devarājatve mahābrahmatve ca pratiṣṭhāpitāḥ| tāvadaprameyāsaṃkhyeyā buddhā bhagavantaḥ satkṛtā gurukṛtā mānitāḥ pūjitā dharmacakrapravartanārthaṃ cādhīṣṭāḥ, yeṣāṃ na sukaro vākkarmanirdeśena paryanto'dhigantum | sa evaṃrūpaṃ kuśalaṃ samudānayat, yadasya bodhisattvacaryāṃ carato'prameyāsaṃkhyeyācintyātulyāmāpyāparimāṇānabhilāpyāni kalpakoṭīniyutaśatasahasrāṇi surabhirdivyātikrāntacandanagandho mukhātpravāti sma| sarvaromakūpebhya utpalagandho vāti sma| sarvalokābhirūpaścābhūtprāsādiko darśanīyaḥ paramaśubhavarṇapuṣkalatayā samanvāgataḥ lakṣaṇavyañjanasamalaṃkṛtenātmabhāvena| tasya sarvaratnālakārāḥ sarvavastracīvarābhinirhārāḥ sarvapuṣpadhūpagandhamālyavilepanacchatradhvajapatākābhinirhārāḥ sarvavādyasaṃgītyabhinirhārāśca sarvaromakūpebhyaḥ pāṇitalābhyāṃ ca niścaranti sma| sarvānnapānakhādyabhojyalehyarasābhinirhārāḥ sarvopabhogaparibhogābhinirhārāśca pāṇitalābhyāṃ prasyandantaḥ prādurbhavanti sma| iti hi sarvapariṣkāravaśitāprāptaḥ sa ānanda dharmākaro bhikṣurabhūt pūrvaṃ bodhisattvacaryāṃ caran ||10||
evamukte āyuṣmānānando bhagavantametadavocat-kiṃ punarbhagavan sa dharmākaro bhikṣurbodhisattvo mahāsattvo'nuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbudhyātītaḥ parinirvṛtaḥ, utāho'nabhisaṃbuddhaḥ atha pratyutpanno'bhisaṃbuddha etarhi tiṣṭhati dhriyate yāpayati dharmaṃ ca deśayati? bhagavānāha-na, khalu punarānanda sa tathāgato'tīto na anāgataḥ | api tveva sa tathāgato'rhan samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddha etarhiṃ tiṣṭhati dhriyate yāpayati dharmaṃ ca deśayati paścimāyāṃ diśi ito koṭīniyutaśatasahasratame ca buddhakṣetre sukhāvatyāṃ lokadhātāvamitābho nāma tathāgato'rhan samyaksaṃbuddho'parimāṇairbodhisattvaiḥ parivṛtaḥ puraskṛto'nantaiḥ śrāvakairanantayā buddhakṣetrasaṃpadā samanvāgataḥ ||11||
amitā cāsya prabhā yasya na sukaraṃ pramāṇaparyantamadhigantum-iyanti buddhakṣetraśatāni, iyanti buddhakṣetrasahasrāṇi, iyanti buddhakṣetraśatasahasrāṇi, iyanti buddhakṣetrakoṭīni, iyanti buddhakṣetrakoṭīśatāni, iyanti buddhakṣetrakoṭīsahasrāṇi, iyanti buddhakṣetrakoṭīśatasahasrāṇi, iyanti buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrāṇi spharitvā tiṣṭhatīti| api tu khalu punarānanda saṃkṣiptena pūrvasyāṃ diśi gaṅgānadīvālukopamāni buddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrāṇi tayā tasya bhagavato'mitābhasya prabhayā sadā sphuṭāni| evaṃ dakṣiṇapaścimottarāsvadha ūrdhvaṃ digvidikṣu ca ekaikasyāṃ diśi samantādgaṅgānadīvālukopamāni yāvadbuddhakṣetrakoṭīniyutaśatasahasrāṇi tasya bhagavato'mitābhasya prabhayā sadā parisphuṭāni sthāpayitvā buddhān bhagavataḥ pūrvapraṇidhānādhiṣṭhānena ye vyāmaprabhayā ekadvitricatuḥpañcadaśaviṃśatitriṃśaccatvāriṃśatpañcāśadyojanaprabhayā yojanaśataprabhayā yojanasahasraprabhayā yojanaśatasahasraprabhayā yāvadanekayojanakoṭīniyutaśatasahasraprabhayā vā lokaṃ spharitvā tiṣṭhanti| nāstyānanda upamopanyāso yena śakyaṃ tasyāmitābhasya tathāgatasya prabhāyāḥ pramāṇamudgrahītum| tadanenānanda paryāyeṇa sa tathāgato'mitābha ityucyate, amitaprabho'mitaprabhāso'samāptaprabho'saṃgataprabhaḥ prabhāśikhotsṛṣṭaprabhaḥ sadivyamaṇiprabho'pratihataraśmirāgaprabho rājanīyaprabhaḥ premaṇīyaprabhaḥ pramodanīyaprabhaḥ saṃgamanīyaprabha upoṣaṇīyaprabho nibandhanīyaprabho'tivīryaprabho'tulyaprabho'bhibhūyanarendrāmūnnayendraprabhaḥ(?) śrāntasaṃcayendusūryajihmīkaraṇaprabho'bhibhūya lokapālaśakrabrahmaśuddhāvāsamaheśvarasarvadevajihmīkaraṇaprabha ityucyate| sā ca āryaprabhā vimalā vipulā kāyasukhasaṃjananī cittaudvilyakaraṇī devāsuranāgayakṣagandharvagaruḍamahoragakinnaramanuṣyāmanuṣyāṇāṃ prītiprāmodyasukhakaraṇī kuśalāśayānāṃ sattvānāṃ kalyakuśalamimiṇevadviprāmodyakaraṇī(?) ye'nyeṣvapyanantāparyanteṣu buddhakṣetreṣu | anena cānanda paryāyeṇa tathāgataḥ paripūrṇaṃ kalpaṃ bhāṣyet tasyāmitābhasya tathāgatasya nāma karmopādāya prabhāmārabhya, na ca śaknoti guṇaparyantamadhigantuṃ tasyāḥ prabhāyāḥ, tathāgatasya vaiśāradyopacchedo bhavet| tatkasya hetoḥ? ubhayamapyetadānanda aprameyamasaṃkhyeyamacintyāparyantaṃ yadidaṃ tasya bhagavato'mitābhasya tathāgatasya prabhāguṇavibhūtiḥ, tathāgatasya cānuttaraṃ prajñāpratibhānam ||12||
tasya khalu punarānanda amitābhasya tathāgatasyāprameyaḥ śrāvakasaṃgho yasya na sukaraṃ pramāṇamudgrahītum-iyatyaḥ śrāvakakoṭyaḥ, iyanti śrāvakakoṭīśatāni, iyanti śrāvakakoṭīsahasrāṇi, iyanti śrāvakakoṭīśatasahasrāṇi, iyanti kaṃkarāṇi, iyanti bimbarāṇi, iyanti nayutāni, iyantyayutāni, iyantyakṣobhyāṇi, iyanto vivāhāḥ, iyanti srotāṃsi, iyanti ojāṃsi, iyantyaprameyāṇi, iyantyasaṃkhyeyāni, iyantyagaṇyāni, iyantyatulyāni, iyantyacintyānīti| tadyathā ānanda bhikṣurmaudgalyāyana ṛddhivaśitāprāptaḥ | sa ākāṅkṣan trisāhasramahāsāhasralokadhātau yāvanti tārārūpāṇi tāni sarvāṇyekarātridine nagareṇa gaṇayet, evaṃrūpāṇāṃ ca ṛddhimatāṃ koṭīniyutaśatasahasraṃ bhavet, te ca varṣakoṭīniyutaśatasahasramananyakarmaṇā amitābhasya tathāgatasya prathamaśrāvakasaṃnipātaṃ gaṇayeyuḥ | ebhirgaṇayadbhiḥ śatatamo'pi bhāgo na gaṇito bhavet, sahasratamo'pi śatasahasratamo'pi, yāvatkalāmapi upamāmapi upanisāmapi na gaṇito bhavet| tadyathā ānanda mahāsamudrāccaturaśītiyojanasahasrāṇyāvedhena tiryagaprameyāt kaścideva puruṣaḥ śatadhā bhinnayā bālāgrakoṭyā ekamudakabindumabhyutkṣipet, tatkiṃ manyase ānanda katamo'tra bahutaraḥ- yo vā śatadhā bhinnayā bālāgrakoṭyābhyutkṣipta eka udakabinduḥ, yo vā mahāsamudre'psakandho'vaśisṭa iti? ānanda āha-yojanasahasramapi tāvadbhagavan mahāsamudrasya parīttaṃ bhavet kimaṅga punaḥ śatadhā bhinnayā bālāgrakoṭyā utkṣipta eka udakabinduḥ | bhagavānāha-tadyathā sa ekabinduḥ, iyattamaḥ sa prathamasaṃnipāto'bhūt| tairmaudgalyāyanasadṛśairbhikṣubhirgaṇayadbhistena varṣakoṭīniyutaśatasahasreṇa gaṇitaṃ bhavet, yathā mahāsamudre'pskandho'vaśiṣṭaḥ | evamagaṇitaṃ draṣṭavyam | kaḥ punarvādo dvitīyatṛtīyādīnāṃ śrāvakasaṃnipātānām| evamanantāparyantastasya bhagavataḥ śrāvakasaṃgho yo'prameyāsaṃkhyeya ityeva saṃkhyāṃ gacchati||13||
aparimitaṃ ca ānanda tasya bhagavato'mitābhasya tathāgatasyāyuḥpramāṇaṃ yasya na sukaraṃ pramāṇamadhigantum, iyanti vā kalpaśatāni, iyanti vā kalpasahasrāṇi, iyanti vā kalpaśatasahasrāaṇi, iyatyo vā kalpakoṭyaḥ, iyanti vā kalpakoṭīśatāni, iyanti vā kalpakoṭīsahasrāṇi, iyanti vā kalpakoṭīśatasahasrāṇi, iyanti vā kalpakoṭīniyutaśatasahasrāṇīti| atha tarhi ānanda aparimitameva tasya bhagavat āyuḥpramāṇamaparyantam| tena sa tathāgato'mitāyurityucyate| yathā cānanda iha lokadhātau kalpagaṇanāprajñaptisaṃketaḥ, tathā sāṃprataṃ daśa kalpāstasya bhagavato'mitāyuṣastathāgatasyotpannasya anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhasya ||14||
tasya khalu punarānanda bhagavato'mitābhasya sukhāvatī nāma lokadhāturṛddhā ca sphītā ca kṣemā ca subhikṣā ca ramaṇīyā ca bahudevamanuṣyākīrṇā ca| tatra khalvānanda lokadhātau na nirayāḥ santi na tiryagyonirna pretaviṣayo nāsurāḥ kāyā nākṣaṇopapattayaḥ | na ca tāni ratnāni loke pracaranti yāni sukhāvatyāṃ lokadhātau vidyante||15||
sā khalvānanda sukhāvatī lokadhātuḥ surabhinānāgandhasamīritā nānāpuṣpaphalasamṛddhā ratnavṛkṣasamalaṃkṛtā tathāgatābhinirmitamanojñasvaranānādvijasaṃghaniṣevitā| te cānanda ratnavṛkṣā nānāvarṇā anekavarṇā anekaśatasahasravarṇāḥ| santi tatra ratnavṛkṣāḥ suvarṇavarṇāḥ suvarṇamayāḥ| santi rūpyavarṇā rūpyamayāḥ| santi vaiḍūryavarṇā vaiḍūryamayāḥ| santi sphaṭikavarṇāḥ sphaṭikamayāḥ| santi musāragalvavarṇā musāragalvamayāḥ| santi lohitamuktāvarṇā lohitamuktāmayāḥ| santyaśmagarbhavarṇā aśmagarbhamayāḥ| santi kecid dvayo ratnayoḥ suvarṇasya rūpyasya ca| santi trayāṇāṃ ratnānāṃ suvarṇasya rūpyasya vaiḍūryasya ca| santi caturṇāṃ ratnānāṃ suvarṇasya rūpyasya vaiḍūryasya sphaṭikasya ca| santi pañcānāṃ ratnānāṃ suvarṇasya rūpyasya vaiḍūryasya sphaṭikasya musāragalvasya ca| santi ṣaṇṇāṃ ratnānāṃ suvarṇasya rūpyasya vaiḍūryasya sphaṭikasya musāragalvasya lohitamuktāyāśca| santi saptānāṃ ratnānāṃ suvarṇasya rūpyasya vaiḍūryasya sphaṭikasya musāragalvasya lohitamuktāyā aśmagarbhasya ca saptamasya| tatrānanda suvarṇamayānāṃ vṛkṣāṇāṃ suvarṇamayāni mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni rūpyamayāṇi| rūpyamayāṇāṃ vṛkṣāṇāṃ rūpyamayānyeva mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni vaiḍūryamayāṇi| vaiḍūryamayāṇāṃ vṛkṣāṇāṃ vaiḍūryamayāṇi mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni sphaṭikamayāni| sphaṭikamayānāṃ vṛkṣāṇāṃ sphaṭikamayānyeva mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni ca musāragalvamayāni| musāragalvamayānāṃ vṛkṣāṇāṃ musāragalvamayānyeva mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni ca lohitamuktāmayāni| lohitamuktāmayānāṃ vṛkṣāṇāṃ lohitamuktāmayānyeva mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni cāśmagarbhamayāṇi| aśmagarbhamayāṇāṃ vṛkṣāṇāmaśmagarbhamayāṇyeva mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpāṇi, phalāni ca suvarṇamayāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ suvarṇamayāni mūlāni, rūpyamayāḥ skandhāḥ, vaiḍūryamayā viṭapāḥ, sphaṭikamayāḥ śākhāḥ, musāragalvamayāni patrāṇi, lohitamuktāmayāni puṣpāṇi, aśmagarbhamayāṇi phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ rūpyamayāṇi mūlāni, vaiḍūryamayāḥ skandhāḥ, sphaṭikamayā viṭapāḥ, musāragalvamayāḥ śākhāḥ, lohitamuktāmayāni patrāṇi, aśmagarbhamayāṇi puṣpāṇi, suvarṇamayāni phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ vaiḍūryamayāṇi mūlāni, sphaṭikamayāḥ skandhāḥ, musāragalvamayā viṭapāḥ, lohitamuktāmayāḥ śākhāḥ, aśmagarbhamayāṇi patrāṇi, suvarṇamayāni puṣpāṇi, rūpyamayāṇi phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ sphaṭikamayāni mūlāni, musāragalvamayāḥ skandhāḥ, lohitamuktāmayā viṭapāḥ, aśmagarbhamayāḥ śākhāḥ, suvarṇamayāni patrāṇi, rūpyamayāṇi puṣpāṇi, vaiḍūryamayāṇi phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ musāragalvamayāni mūlāni, lohitamuktāmayāḥ skandhāḥ, aśmagarbhamayā viṭapāḥ, suvarṇamayāḥ śākhāḥ, rūpyamayāṇi patrāṇi, vaiḍūryamayāṇi puṣpāṇi, sphaṭikamayāni phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ lohitamuktāmayāni mūlāni, aśmagarbhamayāḥ skandhāḥ, suvarṇamayā viṭapāḥ, rūpyamayāḥ śākhāḥ, vaiḍūryamayāṇi patrāṇi, sphaṭikamayāni puṣpāṇi, musāragalvamayāṇi phalānikeṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāmaśmagarbhamayāṇi mūlāni, suvarṇamayāḥ skandhāḥ, rūpyamayā viṭapāḥ, vaiḍūryamayāḥ śākhāḥ, sphaṭikamayāni patrāṇi, musāragalvamayāni puṣpāṇi, lohitamuktāmayāni phalāni| keṣāṃcidānanda vṛkṣāṇāṃ saptaratnamayāni mūlāni, saptaratnamayāḥ skandhāḥ, saptaratnamayā viṭapāḥ, saptaratnamayāḥ śākhāḥ, saptaratnamayāni patrāṇi, saptaratnamayāni puṣpāṇi, saptaratnamayāni phalāni| sarveṣāṃ cānanda teṣāṃ vṛkṣāṇāṃ mūlaskandhaviṭapaśākhāpatrapuṣpaphalāni sukhasaṃsparśāni sugandhīni| vātena preritena ca teṣāṃ valgumanojñaghoṣo niścaratyasecanako'pratikūlaḥ śravaṇāya| evaṃrūpairānanda saptaratnamayairvṛkṣaiḥ saṃtataṃ tadbuddhakṣetraṃ samantācca kadalīskandhaiḥ saptaratnamayai ratnatālapaṅktibhiścānuparikṣiptaṃ sarvataśca hemajālapraticchannaṃ samantaśca sarvaratnamayaiḥ padmaiḥ saṃchannam| santi tatra padmānyardhayojanapramāṇāni, santi yojanapramāṇāni, santi dvitricatuḥpañcayojanapramāṇāni, santi yāvaddaśayojanapramāṇāni| sarvataśca ratnapadmātṣaṭtriṃśadraśmikoṭīśatasahasrāṇi niścaranti| sarvataśca raśmimukhātṣaṭtriṃśadbuddhakoṭīśatasahasrāṇi niścaranti suvarṇamayavarṇaiḥ kāyairdvātriṃśanmahāpuruṣalakṣaṇadharaiḥ, yāni pūrvasyāṃ diśyaprameyāsaṃkhyeyāsu lokadhātuṣu gatvā sattvebhyo dharmaṃ deśayanti| evaṃ dakṣiṇapaścimottarāsu dikṣu adha ūrdhvamanuvidikṣu gatāvaraṇe loke'prameyāsaṃkhyeyāllokadhātūn gatiṃ gattvā sattvebhyo dharmaṃ deśayanti||16||
tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre sarvaśaḥ kālaparvatā na santi sarvato ratnaparvatāḥ sarvaśaḥ sumeravaḥ parvatarājāḥ sarvaśaścakravālā mahācakravālāḥ parvatarājāḥ| samantācca tadbuddhakṣetraṃ samaṃ ramaṇīyaṃ pāṇitalajātaṃ nānāvidharatnamaṇicitabhūmibhāgam| evamukte āyuṣmānānando bhagavantametadavocat-ye ca punaste bhagavaṃścāturmahārājakāyikā devāḥ sumerupārśvanivāsinastrāyastriṃśā vā sumerumūrdhni nivāsinaḥ, te kutra pratiṣṭhitāḥ? bhagavānāha-tatkiṃ manyase ānanda ye te iha sumeroḥ parvatarājasyopari yāmā devāstuṣitā vā nirmāṇaratayo vā paranirmitavaśavartino vā brahmakāyikā vā brahmapurohitā vā mahābrahmāṇo va yāvadakaniṣṭhā vā, kutra te pratiṣṭhitā iti| ānanda āha-acintyo bhagavan karmaṇāṃ vipākaḥ karmābhisaṃskāraḥ| bhagavānāha-labdhastvayānanda ihācintyaḥ karmaṇāṃ vipākaḥ karmābhisaṃskāro na buddhānāṃ bhagavatāmacintyaṃ buddhādhiṣṭhānaṃ kṛtapuṇyānāṃ ca sattvānāmavaropitakuśalamūlānām| tavācintyā puṇyā vibhūtiḥ| ānanda āha-na me'tra bhagavan kācitkāṅkṣā vā vimatirvā vicikitsā vā| api tu khalvahamanāgatānāṃ sattvānāṃ kāṅkṣāvimativicikitsānirghātāya tathāgatametadarthaṃ paripṛcchāmi| bhagavānāha-sādhu sādhvānanda, evaṃ te karaṇīyam||17||
tasyāṃ khalvānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau nānāprakārā nadyaḥ pracaranti| santi tatra mahānadyo yojanavistārāḥ| santi yāvadviṃśatitriṃśaccatvāṃriśatpañcāśadyojanavistārā yāvaddvādaśayojanāvedhāḥ| sarvāśca tā nadyaḥ sukhavāhinyo nānāsurabhigandhavārivāhinyo nānāratnalulitapuṣpasaṃghātavāhinyo nānāmadhurasvaranirghoṣāḥ| tāsāṃ cānanda koṭiśatasahasrāṅgasaṃprayuktasya divyasaṃgītisamūrcchitasya tūryasya kuśalaiḥ saṃpravāditasya tāvanmanojñaghoṣo niścarati yathārūpastāsāṃ mahānadīnāṃ nirghoṣo niścarati gambhīro'jñeyo'vijñeyo'nelaḥ karṇasukho hṛdayaṃgamaḥ premaṇīyo valgurmanojño'secanako'pratikūlaḥ śravaṇāya, anityaṃ śāntamanātmeti sukhaśravanīyo yasteṣāṃ sattvānāṃ śrotrendriyābhāsamāgacchati| tāsāṃ khalu punarānanda mahānadīnāmubhayatastīrāṇi nānāgandharatnavṛkṣaiḥ saṃtatāni, yebhyo nānāśākhāpatrapuṣpamañjaryo'valambante| tatra ye sattvāsteṣu nadītīreṣvākāṅkṣanti divyābhirāmaramaṇīyāṃ ratikrīḍāṃ cānubhavitum, teṣāṃ tatra nadīṣvavatīrṇānāmākāṅkṣatāṃ gulphamātraṃ vāri saṃtiṣṭhate| ākāṅkṣatāṃ jānumātraṃ kaṭimātraṃ kakṣamātram, ākāṅkṣatāṃ karṇamātraṃ vāri saṃtiṣṭhate, divyāśca ratayaḥ prādurbhavanti| tatra ye sattvā ākāṅkṣanti śītaṃ vāri bhavatviti, teṣāṃ śītaṃ vāri bhavati| ya ākāṅkṣanyuṣṇaṃ bhavatviti, teṣāmuṣṇaṃ bhavati| ya ākāṅkṣanti śītoṣṇaṃ bhavatviti, teṣāṃ śītoṣṇameva tadvāri bhavatyanusukham| tāśca mahānadyo divyatamālapatrāgarukālānusāritagaroragasāracandanavaragandhavāsitavāriparipūrṇāḥ pravahanti divyotpalapadmakumudapuṇḍarīkasaugandhikādipuṣpasaṃchannā haṃsasārasakrauñcacakravākakāraṇḍavaśukaśārikakokilakuṇālakalaviṅkamayūrādimanojña-svarāstathāgatābhinirmitapakṣisaṃghaniṣevitapulinā dhārtarāṣṭropaśobhitāḥ sūpatīrthā vikardamāḥ suvarṇavālukāsaṃkirṇāḥ| tatra yadā te sattvā ākāṅkṣanti kīdṛśā asmākamabhiprāyāḥ paripūryantāmiti, tadā teṣāṃ tādṛśā evābhiprāyā paripūryante| yaścāsāvānanda tasya vāriṇo nirghoṣaḥ sa manojño niścarati, yena sarvāvattadbuddhakṣetramabhijñāpyate| ye ca sattvā nadītīreṣu sthitā ākāṅkṣanti mā asmākamayaṃ śabdaḥ śrotrendriyāvabhāsamāgacchatviti, teṣāṃ na divyasyāpi śrotrendriyasyāvabhāsamāgacchati| yaśca yathārūpaṃ śabdamākāṅkṣati śrotum, sa tathārūpameva manojñaṃ śabdaṃ śṛṇoti| tadyathā-buddhaśabdaṃ dharmaśabdaṃ saṃghaśabdaṃ pāramitāśabdaṃ bhūmiśabdaṃ balaśabdaṃ vaiśāradyaśabdamāveṇikabuddhadharmaśabdaṃ pratisaṃvicchabdaṃ śūnyatānimittāpraṇihitānabhisaṃskārājātānutpādābhāvanirodhaśabdaṃ śāntapraśāntopaśāntaṃ mahāmaitrīmahākarūṇāmahāmuditāmahopekṣāśabdamanutpattikadharmakṣāntyabhiṣekabhūmipratilambhaśabdam| śrutvā udāraprītiprāmodyaṃ pratilabhate vivekasahagataṃ virāgasahagataṃ śāntasahagataṃ nirodhasahagataṃ dharmasahagataṃ bodhipariniṣpattikuśalamūlasahagataṃ ca| sarvaśaścānanda sukhāvatyāṃ lokadhātāvakuśalaśabdo nāsti, sarvaśo nīvaraṇaśabdo nāsti, sarvaśo'pāyadurgativinipātaśabdo nāsti, sarvaśo duḥkhaśabdo nāsti| aduḥkhāsukhavedanāśabdo'pi tāvadānanda tatra nāsti, kutaḥ punarduḥkhaśabdo bhaviṣyati? tadanena ānanda paryāyeṇa sā lokadhātuḥ sukhāvatītyucyate saṃkṣiptena, na punarvistareṇa kalpo'pyānanda parikṣayaṃ gacchetsukhāvatyā lokadhātoḥ sukhakāraṇeṣu parikīrtyamāneṣu, na tveva śakyaṃ teṣāṃ sukhakāraṇānāṃ paryantamadhigantum||18||
tasyāṃ khalu punarānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau ye sattvāḥ pratyājātāḥ pratyājaniṣyante, sarve te evaṃrūpeṇa varṇena balena sthāmnā ārohapariṇāhena ādhipatyena puṇyasaṃcayena atiṣṇabhirvastrābharaṇodyānavimānakūṭāgāraparibhogairevaṃrūpaśabdagandharasasparśaparibhogaiḥ evaṃrūpaiśca sarvairapi bhogaparibhogaiḥ samanvāgatāḥ, tadyathāpi nāma devāḥ paranirmitavaśavartinaḥ| na khalu punarānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau sattvā audārikayūṣaphāṇitākārāhāramāharanti| api tu khalu punaryathārūpamevāharamākāṅkṣanti, tathārūpamāhṛtameva saṃjānanti, prīṇitakāyāśca bhavanti prīṇitamānāḥ| na teṣāṃ bhūyaḥ kāye prakṣepaḥ karaṇīyaḥ | te prīṇitakāyāstathārūpāṇi gandhajātānyākāṅkṣanti-īddaśaireva gandhajātairdivyaistadbuddhakṣetraṃ sarvameva nirdhūpitaṃ bhavati| tatra yastaṃ gandhamāghrātukāmo bhavati, tasya sarvaśo gandharvarājño vāsanā na samudācarati| evaṃ ye yathārūpāṇi gandhamālyavilepanacūrṇacīvaracchatradhvajapatākātūryāṇyākāṅkṣanti, teṣāṃ tathārūpaiśca taiḥ sarvaṃ tadbuddhakṣetraṃ parisphuṭaṃ bhavati| cīvarāṇyākāṅkṣanti nānāvarṇānyanekaśatasahasravarṇāni, teṣāṃ tādṛśaireva cīvararatnaiḥ sarvaṃ tadbuddhakṣetraṃ parisphuṭaṃ bhavati, prāvṛtameva cātmānaṃ saṃjānanti| te yathārūpāṇyābharaṇānyākāṅkṣanti, tadyathā-śīrṣābharaṇāni vā karṇābharaṇāni vā grīvābharaṇāni vā hastapādābharaṇāni vā yadidaṃ mukuṭāni kuṇḍalāni kaṭakakeyūrāṇi vatsahārā rūcakahārā karṇikā mudrikāḥ svarṇasūtrāṇi mekhalāḥ svarṇasūtāṇi jālāni muktājālāni sarvaratnajālāni svarṇaratnakiṅkiṇījālāni, tathārūpairābharaṇairanekaratnaśatasahasrapratyuptaiḥ sphuṭaṃ tadbuddhakṣetraṃ paśyanti yadidamābharaṇavṛkṣāvasaktaiḥ| taiścābharaṇairalaṃkṛtamātmānaṃ saṃjānanti| te yādṛśaṃ vimānamākāṅkṣanti yadvarṇaliṅgasaṃsthānaṃ yāvadārohapariṇāhaṃ nānāratnamayaniryūhaśatasahasrasamalaṃkṛtaṃ nānādivyapuṣpasaṃstīrṇaṃ citropadhānavinyastaparyaṅkam, tādṛśameva vimānaṃ teṣāṃ purataḥ prādurbhavati| teṣu manonirvṛtteṣu vimāneṣu saptasaptāsparasahasraparivṛtāḥ puraskṛtā viharanti krīḍanti ramante paricārayanti||19||
na ca tatra lokadhātau devānāṃ vā manuṣyāṇāṃ vā nānātvamasti anyatra saṃvṛtivyavahāreṇa devamanuṣyāviti saṃkhyāṃ gacchanti| tadyathā ānanda rājñaścakravartinaḥ purato manuṣyahīno manuṣyapretako na bhāsate na tapate na virocate, na ca bhavati viśārado na prabhāśvaraḥ, evameva devānāṃ paranirmitavaśavartināṃ purataḥ śakro devānāmindro na bhāsate na tapate na virocate yadidamudyānavimānavastrābharaṇairādhipatyena ṛddhyā vā prātihāryeṇa vā aiśvaryeṇa vā ānanda, sa khalu dharmābhisamayena dharmaparibhogeṇa vā| tatra ānanda yathā devāḥ parinirmitavaśavartinaḥ, evaṃ sukhāvatyāṃ lokadhātau manuṣyā draṣṭavyāḥ ||20||
tasyāṃ khalu punarānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau pūrvāhṇakālasamaye pratyupasthite samantāccaturdiśamākulāḥ samākulā vāyavo vānti| teṣāṃ ratnavṛkṣāṇāṃ citrān darśanīyān nānāvarṇānanekavṛntān nānāsurabhidivyagandhaparivāsitān kṣobhayanti saṃkṣobhayanti īrayanti samīrayanti yato bahūni puṣpaśatāni tasyāṃ ratnamayyāṃ mahāpṛthivyāṃ prapatanti manojñagandhāni darśanīyāni| taiśca puṣpaistadbuddhakṣetraṃ samantātsaptapauruṣaṃ saṃskṛtarūpaṃ bhavati| tadyathāpi nāma puruṣaḥ kuśalaḥ pṛthivyāṃ puṣpasaṃstaraṃ saṃstṛṇuyāt, ubhābhyāṃ pāṇibhyāṃ samaṃ racayetsucitraṃ darśanīyam, evameva tadbuddhakṣetraṃ taiḥ puṣpairnānāgandhavarṇaiḥ samantātsaptapauruṣaṃ sphuṭaṃ bhavati| tāni ca puṣpajātāni mṛdūni kācilindikasukhasaṃsparśāni aupamyamātreṇa, yāni nikṣipte pāde caturaṅgulamavanamanti, utkṣipte pāde caturaṅgulamevonnamanti| nirgate punaḥ pūrvāhṇakālasamaye tāni puṣpāṇi niravaśeṣamantardhīyante| athe tadbuddhakṣetraṃ viviktaṃ ramyaṃ śubhaṃ bhavatyaparikliṣṭaiḥ pūrvapuṣpaiḥ| tataḥ punarapi samantāccaturdiśaṃ vāyavo vānti, ye pūrvavadabhinavāni puṣpāṇyabhiprakiranti| yathā pūrvāhṇe, evaṃ madhyāhnakālasamaye saṃdhyāyāṃ rātryāḥ prathame yāme madhyame yāme paścime yāme| taiśca vātairvāyadbhirnānāgandhaparivāsitaiste sattvāḥ spṛṣṭāḥ santaḥ evaṃ sukhasamarpitā bhavanti tadyathāpi nāma nirodhasamāpanno bhikṣuḥ ||21||
tasmiścānanda buddhakṣetre sarvaśo'gnisūryacandragrahanakṣatratārārūpāṇāṃ tamondhakārasya nāmadheyaprajñapraptirapi nāsti| sarvaśo rātriṃdivaṃ prajñaptirapi nāsti anyatra tathāgatavyavahārāt, sarvaśaścārāmaparigrahasaṃjñā nāsti||22||
tasyāṃ khalu punarānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau kāle divyagandhodakameghā abhipravarṣayanti divyāni sarvavarṇikāni kusumāni, divyāni saptaratnāni, divyaṃ candanacūrṇam, divyāśchatradhvajapatākā abhipravarṣayanti| divyāni sarvavarṇikāni kusumāni, divyāni vitānāni dhriyante, divyāni cchatraratnāni sarvābharaṇānyākāśe dhriyante, divyāni vādyāni pravādyante, divyāścāpsaraso nṛtyanti ||23||
tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre ye sattvā upapannā utpadyante utpasyante, sarve te niyatāḥ samyaktve yāvannirvāṇam| tatkasya hetoḥ? nāsti tatra dvayo rāśyorvyavasthānaṃ prajñaptirvā yadidamaniyatasya vā mithyātvaniyatasya vā| tadanenāpyānanda paryāyeṇa sā lokadhātuḥ sukhāvatītyucyate saṃkṣiptena, na punarvistareṇa | kalpo'pyānanda parikṣīyeta sukhāvatyāṃ lokadhātau sukhakāraṇeṣu parikīrtyamāneṣu, na ca teṣāṃ sukhakāraṇānāṃ śakyaṃ paryantamadhigantum ||24||
atha khalu bhagavāṃstasyāṃ velāyāmimā gāthā abhāṣata-
sarve'pi sattvāḥ sukhitā bhaveyu-
rviśuddhajñānāḥ paramārthakovidāḥ|
te kalpakoṭīmatha vāpi cottariṃ
sukhāvatīvarṇa prakāśayeyuḥ||23||
kṣaye kalpakoṭī vajre surāśca
sukhāvatīye na ca varṇasāruḥ |
kṣayaṃ na gacchetpratibhā ca teṣāṃ
prakāśayantāna tu varṇa nānāṃ ||24||
ye lokadhātū paramāṇusādṛśāṃ-
śchidyeya bhidyeya rajaśca kuryāt|
ato bahū uttari lokadhātu
pūreta dānaṃ ratanāhi dadyāt||25||
naitā kalāpi upamāpi tasya
puṇyasya bhontī pṛthulokadhātavaḥ|
ye lokadhātūya sukhāvatīye
śrutvaiva nāmaṃ bhavatīha puṇyam||26||
tato bahū puṇya bhaveta teṣāṃ
ye śraddhate jinavacanaṃ saprajñāḥ|
śraddhā hi mūlaṃ jagatasya prāptaye
tasmāddhi śrutvā vicitiṃ vinodayet||27||iti||
evamaprameyaguṇavarṇā ānanda sukhāvatī lokadhātuḥ||25||
tasya khalu punarānanda bhagavato'mitābhasya tathāgatasya daśasu dikṣu ekaikasyāṃ diśi gaṅgānadīvālukāsameṣu buddhakṣetreṣu gaṅgānadīvālukāsamā buddhā bhagavanto nāmadheyaṃ parikīrtayante, varṇaṃ bhāṣante, yaśaḥ prakāśayanti, guṇamudīrayanti| tatkasya hetoḥ? ye kecitsattvāstasya bhagavato'mitābhasya nāmadheyaṃ śṛṇvanti, śrutvā cāntaśa ekacittotpādamapyadhyāśayena prasādasahagatena cittamutpādayanti, te sarve'vaivartikatāyāṃ santyanuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ||26||
ye cānanda kecitsattvāstaṃ tathāgataṃ punaḥ satkāramanasikariṣyanti, bahvaparimitaṃ kuśalamūlamavaropayiṣyanti bodhaye cittaṃ pariṇāmya, tatra ca lokadhātāvupapattaye praṇidhāsyanti, teṣāṃ so'mitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddho maraṇakālasamaye pratyupasthite'nekabhikṣugaṇaparivṛtaḥ puraskṛtaḥ sthāsyati| tataste taṃ bhagavantaṃ dṛṣṭvā prasannacittāścyutāḥ santastatraiva sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| yaśca ānanda ākāṅkṣeta kulaputro vā kuladuhitā vā kimityahaṃ dṛṣṭa eva dharme tamamitābhaṃ tathāgataṃ paśyeyamiti, tenānuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau cittamutpādya adhyāśayātiśayatayā saṃtatyā tasmin buddhakṣetre cittaṃ saṃpreṣya upapattaye kuśalamūlāni ca pariṇāmayitavyāni||27||
ye punastaṃ tathāgataṃ na bhūyo manasikariṣyanti, na ca bahvaparimitaṃ kuśalamūlamabhīkṣṇamavaropayiṣyanti, teṣāṃ tādṛśenaiva so'mitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddho varṇasaṃsthānārohapariṇāhena bhikṣusaṃghaparivāreṇa ca tādṛśa eva buddhinirmito maraṇakālasamaye purataḥ sthāsyati| te tenaiva tathāgatadarśanaprasādālambanena samādhinā apramuṣitayā smṛtyā cyutāstatraiva buddhakṣetre pratyājaniṣyanti||28||
ye punarānanda sattvāstaṃ tathāgataṃ daśacittotpādātsamanusmariṣyanti, spṛhāṃ ca tasmin buddhakṣetra utpādayiṣyanti, gambhīreṣu ca dharmeṣu bhāṣyamāṇeṣu tuṣṭiṃ pratilapsyante, na vipatsyante, na viṣādamāpatsyante, na saṃsadanamāpatsyante, antaśa ekacittotpādenāpi taṃ tathāgataṃ manasikariṣyanti, spṛhāṃ cotpādayiṣyanti tasmin buddhakṣetre, te'pi svapnāntaragatā amitābhaṃ tathāgataṃ drakṣyanti, sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante, avaivartikāśca bhaviṣyantyanuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ||29||
imaṃ khalvānanda arthavaśaṃ saṃpaśya tathāgatā daśasu dikṣu aprameyāsaṃkhyeyāsu lokadhātuṣu tasyāmitābhasya tathāgatasya nāmagheyaṃ parikīrtayanto varṇaṃ ghoṣayantaḥ saṃpraśaṃsāmabhyudīrayanti| tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre daśabhyo digbhya ekaikasyāṃ diśi gaṅgānadīvālukāsamā bodhisattvāstamamitābhaṃ tathāgatamupasaṃkramanti darśanāya vandanāya paryupāsanāya paripraśnīkaraṇāya, taṃ ca bodhisattvagaṇaṃ tāṃśca buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadviśeṣān draṣṭum||30||
atha khalu bhagavāṃstasyāṃ velāyāmimamevārthaṃ bhūyasyā mātrayā paridīpayannimā gāthā abhāṣata-
yathaiva gaṅgānadīvālukāsamā
buddhāna kṣetrā amitāyunāyakam||28||
bahupuṣpapūṭī gṛhītva te
nānāvarṇaṃ surabhī manoramāṃ|
okiranti naranāyakottamaṃ
amitāyuṃ naradevapūjitam||29||
tatha dakṣiṇapaścimottarāsu
buddhāna kṣetrā daśatāsu yāttakāḥ|
yato yato āgami buddha vandituṃ
sabodhisattvā amitāyunāyakam||30||
bahugandhāpūṭī gṛhitvā
nānāvarṇa surabhī manoramāṃ |
okiranti naranāyakottamaṃ
amitāyuṃ naradevapūjitam||31||
pūjitva vā te bahubodhisattvā
vanditva pādāmamitaprabhasya|
pradakṣiṇīkṛtya vadanti caivaṃ
aho'dbhutaṃ śobhati buddhakṣetram||32||
te puṣpapūṭīhi punokiranti
udagracittā atulāya prītiye|
kāmaṃ prabhāṣanti purasta nāyake
asmāpi kṣetraṃ siya evarūpam||33||
ye puṣpapūṭā iti kṣipta tatra
chatraṃtayā saṃsthihi yojanāśatam|
svalaṃkṛtaṃ śobhati citraravato
chādante buddhasya samanta kāyam||34||
te bodhisattvā tathā satkaritvā
kathaṃ karontī iti tuṣṭa tatra|
sulabdha lābhāḥ khalu tehi sattvaiḥ
yehī śrutaṃ nāma narottamasya||35||
asmehi pī lābha sulabdhapūrvā
yadā gatāsya ima buddhakṣetram|
paśyātha svapnopama maitra kīdṛśaṃ
yatkalpitaṃ kalpasahasra śāstuḥ||36||
paśyātha buddhā vara puṇyarāśiḥ
parivṛto śobhati bodhisattvaiḥ|
amitābhasya ābhā amitā ca tejā
amitaṃ ca āyūramitaśca saṃghaḥ||37||
smitaṃ karotī amitāyunāthaṃ
ṣaṭtriṃśakoṭīnayutāna arciṣām|
ye niścaritvā mukhamaṇḍalātaḥ
sphūranti kṣetrāṇi sahasrakoṭīḥ||38||
tāḥ sarvasūrīḥ punaretya tatra
mūrdhe ca astaṃ gami nāyakasya|
devā manuṣyā janayanti prītiṃ
arcistadā asyamidāṃ viditvā||39||
uttiṣṭhate buddhasuto mahāyaśā
nātha so hi avalokiteśvaraḥ|
ko heturatra bhagavaṃ kaḥ pratyayo
yena smitaṃ kurvasi lokanātha||40||
taṃ vyākarohī yatra so'rthakovido
hitānukampī bahusattvamocakaḥ|
śrutveti vācaṃ paramāṃ manoramāṃ
udagracittā bhaviṣyanti sattvāḥ||41||
ye bodhisattvā bahulokadhātutaḥ
sukhāvatīṃ prasthita buddha paśyatāṃ|
te śrutvā prītiṃ vipulāṃ janetvā
kṣipramimaṃ kṣetra vilokayeyuḥ||42||
āgatya ca kṣetramidaṃ udāraṃ
ṛddhībalaṃ prāpuṇi kṣiprameva|
divyaṃ ca cakṣustatha śrotra divyaṃ
jātismarāḥ pāramikovidāśca||43||
amitāyu buddhastada vyākaroti
mama hyayaṃ praṇidhi babhūva pūrvam|
kathaṃ pi sattvā śruṇiyāni nāma
vrajeyu kṣetraṃ mama nityameva||44||
sa me ayaṃ praṇidhi prapūrṇa śobhanā
sattvāśca ebhi bahulokadhātutaḥ|
āgatya kṣipraṃ mama antikasmiṃ
avaivartikā bhontiha ekajātiyā||45||
tasmādya icchatiha bodhisattvaḥ
mamāpi kṣetraṃ siya evarūpam|
ahaṃ pi sattvān bahu mocayeyaṃ
nāmena ghoṣeṇa tha darśanena||46||
sa śīghraśīghraṃ tvaramāṇarūpaḥ
sukhāvatīṃ gacchatu lokadhātum|
gattvā ca pūrvamamitaprabhasya
pūjetu buddhāna sahasrakoṭīḥ||47||
buddhāna koṭī bahu pūjayitvā
ṛddhībalena bahu kṣetra gattvā|
kṛtvāna pūjāṃ sugatāna santike
bhaktyā gamiṣyanti sukhāvatītaḥ|| 48|| iti|| 31||
tasya khalu punarānanda amitāyuṣastathāgatasyārhataḥ samyaksaṃbuddhasya bodhivṛkṣaḥ| sa daśa yojanaśatānyuccaistvena, aṣṭau yojanaśatānyabhipralambitaśākhāpatrapalāśaḥ pañcayojanaśatamūlārohapariṇāhaḥ sadāpatraḥ sadāpuṣpaḥ sadāphalo nānāvarṇo'nekaśatasahasravarṇo nānāpatro nānāpuṣpo nānāphalo nānāvicitrabhūṣaṇasamalaṃkṛtaścandrabhāsamaṇiratnaparisphuṭaḥ śakrābhilagnamaṇiratnavicitritaścintāmaṇiratnākīrṇaḥ sāgaravaramaṇiratnasuvicitrito divyasamatikrāntaḥ svarṇasūtrābhipralambito rucakahāraratnahāravatsahārakaṭakahāralohitamuktāhāranīlamuktāhārasiṃhalatāmekhalākalāparatnasūtrasarva-ratnavastuśatābhivicitritaḥ svarṇajālamuktājālasarvaratnajālakiṅkiṇījālatato makarasvastikanandyāvartacandrasamalaṃkṛtaḥ kiṅkiṇīmaṇijālasauvarṇasarvaratnālaṃkāravibhūṣito yathāśayasattvavijñaptisamalaṃkṛtaśca| tasya khalu punarānanda bodhivṛkṣasya vātasamīritasya yaḥ śabdo ghoṣo niścarati so'parimāṇāllokadhātūn vijñāpayati| tatrānanda yeṣāṃ sattvānāṃ sa bodhivṛkṣaḥ śrotrāvabhāsamāgacchati, teṣāṃ śrotrarogo na pratikāṅkṣitavyo yāvadbodhiparyantam| yeṣāmaprameyāsaṃkhyeyācintyātulyāmāpyāparimāṇānabhilāpyānāṃ sattvānāṃ sa bodhivṛkṣaścakṣuṣa ābhāsamāgacchati, teṣāṃ cakṣūrogo na pratikāṅkṣitavyo yāvadbodhiparyantam| ye khalu punarānanda sattvāstato bodhivṛkṣādgandhaṃ jighranti, teṣāṃ yāvadbodhiparyantaṃ na jātu ghrāṇaroagaḥ pratikāṅkṣitavyaḥ| ye sattvāstato bodhivṛkṣatphalānyāsvādayanti, teṣāṃ yāvadbodhiparyantaṃ na jātu jihvārogaḥ pratikāṅkṣitavyaḥ| ye sattvāstasya bodhivṛkṣasyābhayā sphuṭā bhavanti, teṣāṃ yāvadbodhiparyantaṃ na jātu kāyarogaḥ pratikāṅkṣitavyaḥ| ye ca khalu punarānanda sattvāstaṃ bodhivṛkṣaṃ dharmato nidhyāyanti, teṣāṃ tata upādāya yāvadbodhiparyantaṃ na jātu cittavikṣepaḥ pratikāṅkṣitavyaḥ| sarve ca te sattvāḥ sahadarśanāttasya bodhivṛkṣasyāvaivartikāḥ saṃtiṣṭhante yadutānuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ| tisraśca kṣāntīḥ pratilabhante yadidaṃ ghoṣānugāmanulomikīmanutpattikadharmakṣāntiṃ ca tasyaivāmitāyuṣastathāgatasya pūrvapraṇidhānādhiṣṭhānena pūrvajinakṛtādhikāratayā pūrvapraṇidhānaparicaryayā ca susamāpyayā subhāvitayānūnāvikalatayā||32||
tatraiva khalu punarānanda ye bodhisattvāḥ pratyājātāḥ pratyājāyante pratyājaniṣyante vā, sarve te ekajātipratibaddhāstata evānuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbhotsyante sthāpayitvā praṇidhānavaśaṃ ye te bodhisattvā mahāsiṃhanādanādina udārasaṃnāhasaṃnaddhāḥ sarvasattvaparinirvāṇābhiyuktāśca||33||
tasmina khalu punarānanda buddhakṣetre ye śrāvakānte vyāmaprabhāḥ, te bodhisattvāste yojanakoṭīśatasahasraprabhāḥ, sthāpayitvā dvau bodhisattvau yayoḥ prabhayā sā lokadhātuḥ satatasamitaṃ nityāvabhāsasphuṭā| atha khalvāyuṣmānānando bhagavantametadavocat-kiṃnāmadheyau bhagavaṃstau bodhisattvau mahāsattvau? bhagavānāha-ekastayorānanda avalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvaḥ dvitīyo mahāsthāmaprāpto nāma| ita eva cānanda buddhakṣetrāccyutā tau tatropapannau||34||
tatra cānanda buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātāḥ, sarve te dvātriṃśanmahāpuruṣalakṣaṇasamanvāgatāḥ paripūrṇagātrā dhyānābhijñākovidāḥ prajñāprabhedakuśalāstīkṣṇendriyāḥ susaṃvṛtendriyā ājñātāvīndriyā adīnābalendriyāḥ pratilambhakṣāntikā anantāparyantaguṇāḥ||35||
tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre ye bodhisattvā pratyājātāḥ, sarve te'virahitā buddhadarśanenāvinipātadharmāṇo yāvadbodhiparyantam| sarve te tata upādāya na jātu jātismarā bhaviṣyanti sthāpayitvā tathārūpeṣu kalpasaṃkṣobheṣu ye pūrvasthānapraṇihitāḥ pañcasu kaṣāyeṣu vartamāneṣu yadā buddhānāṃ bhagavatāṃ loke prādurbhāvo bhavati tadyathāpi nāma mamaitarhi||36||
tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre ye bodhisattvāḥ pratyājātāḥ, sarve te ekapurobhaktenānyāllokadhātūn gatvā anekāni buddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇyupatiṣṭhanti yāvadākāṅkṣanti buddhānubhāvena| te yathā yathā cittamutpādayanti evamevaṃrūpaiḥ puṣpadhūpadīpagandhamālyavilepanacūrṇacīvaracchatradhvajapatākāvaijayantītūryasaṃgītivādyaiḥ pūjāṃ kuryāma iti, teṣāṃ sahacittotpādāttathārūpāṇi ca sarvapūjāvidhānāni pāṇau prādurbhavanti| te taiḥ puṣpairyāvadvādyaisteṣu buddheṣu bhagavatsu pūjāṃ kurvanto bahvaparimāṇāsaṃkhyeyaṃ kuśalamupacinvanti| sacetpunarākāṅkṣanti evaṃrūpāḥ puṣpapuṭāḥ pāṇau prādurbhavantviti, teṣāṃ sahacittotpādānnānāvarṇā anekavarṇā nānāgandhā divyāḥ puṣpapuṭāḥ pāṇau prādurbhavanti| te taistathārūpaiḥ puṣpapuṭaistān buddhān bhagavato'vakiranti abhyavakiranti abhiprakiranti| teṣāṃ ca yaḥ sarvaparītaḥ puṣpapuṭa utsṛṣṭaḥ sa daśayojanavistaraṃ puṣpacchatraṃ prādurbhavati uparyantarīkṣe| dvitīye cānutsṛṣṭe na prathamo dharaṇyāṃ prapatati| santi tatra puṣpapuṭā ya utsṛṣṭāḥ santo viṃśatiyojanavistārāṇi puṣpacchatrāṇyuparyantarīkṣe prādurbhavanti| santi triṃśaccatvāriṃśatpañcāśadyojanavistārāṇi, santi yāvadyojanaśatasahasravistārāṇi puṣpacchatrāṇyuparyantarīkṣe prādurbhavanti|
tatra ye udāraṃ prītiprāmodyaṃ saṃjanayanti, udāraṃ ca cittaudvilyaṃ pratilabhante, te bahvaparimitamasaṃkhyeyaṃ kuśalamūlamavaropya bahūni ca buddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇyupasthāya ekapūrvāhṇena punarapi sukhāvatyāṃ lokadhātau pratiṣṭhante tasyaivāmitāyuṣastathāgatasya pūrvapraṇidhānādhiṣṭhānaparigraheṇa pūrvadattadharmaśravaṇena pūrvajināvaropitakuśalamūlatayā pūrvapraṇidhānasamṛddhiparipūryātmabhūtayā suvibhaktabhāvitayā||37||
tasmin khalu punarānanda buddhakṣetre ye sattvāḥ pratyājātāḥ, sarve te sarvajñatāsahagatāmeva dharmakathāṃ kathayanti| na ca tatra buddhakṣetre sattvānāṃ kācitparigrahasaṃjñāsti| te sarve ca tadbuddhakṣetramanucaṃkramamāṇā anuvicaranto na ratiṃ nāratimutpādayanti| prakrāmantaścānapekṣāḥ, na ca prakrāmanti sāpekṣāḥ| sarvasattveṣāmeva cittaṃ nāsti | tatra khalu punarānanda sukhāvatyāṃ lokadhātau ye sattvāḥ pratyājātāḥ, nāsti teṣāmanyatamakasaṃjñā, nāsti svakasaṃjñā, nāstyasamasaṃjñā, nāsti vigrahaḥ, nāsti vivādaḥ, nāsti virodhaḥ| samacittā maitracittā mṛducittāḥ snigdhacittāḥ karmaṇyacittāḥ prasannacittāḥ sthiracittā vinīvaraṇacittā akṣubhitacittā alulitacittāḥ prajñāpāramitācaryācaraṇacittāścittādhārabuddhipraviṣṭāḥ| sāgarasamāḥ prajñayā, merusamā buddhyā, anekaguṇasaṃnicayāḥ, bodhyaṅgasaṃgītyā vikrīḍitāḥ, buddhasaṃgītyabhiyuktā māṃsacakṣuḥ pravicinvanti, divyaṃ cakṣurabhinirharanti, prajñācakṣurgatiṃgatā dharmacakṣuḥpāragatā buddhacakṣurniṣpādayanto darśayanto dyotayanto vistareṇa prakāśayanto'saṅgajñānamabhinirharanti| traidhātukasamatāyāmabhiyuktā dāntacittāḥ śāntacittāḥ sarvadharmadhātūpalabdhisamanvāgatāḥ samudayaniruktikuśalā dharmaniruktisamanvāgatā hārāhārakuśalā nayānayakuśalāḥ sthānakuśalā laukikīṣu kathāsvanapekṣā viharanti| lokottarābhiḥ kathābhiḥ sāraṃ pratyayanti| sarvadharmaparyeṣṭikuśalāḥ sarvadharmaprakṛtivyupaśamajñānavihāriṇo'nupalambhagocarā niṣkiṃcanā nirupādānā niścintā nirupadhayo'nupādāya suvimuktā anaṅgaṇā aparyasthāyino'bhijñāsu amūlasthāyino'saṅgācārikā anavalīnā gambhīreṣu dharmeṣvabhiyuktā na saṃsīdanti dūranubodhabuddhajñānapraveśodgatā ekāyanamārgānuprāptā nirvicikitsāstīrṇakathaṃkathā aparapratyayajñānā anadhimāninaḥ| sumerusamā jñānābhyudgatāḥ| sāgarasamā buddhyakṣobhyāḥ| candrasūryaprabhātikrāntāḥ prajñābhayā pāṇḍarasuśuklaśuddhaśubhacittatayā ca| uttaptahemavarṇasadṛśā avabhāsanirbhāsatayā ca| vasuṃdharāsadṛśāḥ sarvasattvaśubhāśubhakṣamaṇatayā| apsadṛśāḥ sarvakleśamūlanirdhāvanapravāhaṇatayā ca| agnirājasadṛśāḥ sarvadharmamanyanākleśanirdahanatayā| vāyusadṛśāḥ sarvalokāsañjanatayā| ākāśasadṛśāḥ sarvadharmanairvedhikatayā sarvaśo niṣkiṃcanatayā ca| padmasadṛśāḥ sarvalokānupaliptatayā| kālānusārimahāmeghasadṛśā dharmābhigarjanatayā| mahāvṛṣṭisadṛśā dharmasalilābhipravarṣaṇatayā| ṛṣabhasadṛśā mahāgaṇābhibhavanatayā| mahānāgasadṛśāḥ paramasudāntacittatayā| bhadrāśvājāneyasadṛśāḥ suvinītatayā| siṃhamṛgarājasadṛśā vikramavaiśāradyāsaṃtrastatayā| nyagrodhadrumarājasadṛśāḥ sarvasattvaparitrāṇatayā| parvatarājasadṛśāḥ sarvaparapravādyakampanatayā| gaganasadṛśā aparimāṇamaitrīprabhāvanatayā| mahābrahmasamāḥ sarvakuśalamūladharmādhipatyapūrvaṃgamatayā| pakṣisadṛśā asaṃnicayasthānatayā| garuḍadvijarājasadṛśāḥ sarvaparapravādividhvaṃsanatayā| udumbarapuṣpasadṛśā durlabhāpratyarthitayā| nāgavatsusamāhitā avikṣiptājihmendriyatayā| viniścayakuśalāḥ kṣāntisaurabhyabahulāḥ| anīrṣukāḥ parasaṃpattyaprārthanatayā| viśāradā dharmakathā svatṛptā dharmaparyeṣṭayā| vaiḍūryasadṛśāḥ śīlena| ratnākarāḥ śrutena| mañjusvarā mahādharmadundubhinirghoṣeṇa| mahādharmabherīṃ parāghnanto mahādharmaśaṅkhamāpūrayanto mahādharmadhvajamucchrāpayanto dharmolkāṃ prajvālayantaḥ prajñāvilokino'saṃmūḍhā nirdoṣāḥ śāntakhilāḥ śuddhā nirāmagandhā alubdhāḥ saṃvibhāgaratā muktatyāgāḥ prasṛtapāṇayo dānasaṃvibhāgaratā dharmāmiṣābhyāṃ dāne'matsariṇo'saṃsṛṣṭā urtrastamānasā viraktā dhīrā dhaureyā dhṛtimanto hrīmantaḥ suvyūḍhasattvā nirgāḍhāḥ prāptābhijñāḥ suratāḥ sukhasaṃvāsā arthakarā lokapradyotā nāpadāgantuṃ dhīrā rāgaṃ tamaḥ pranekasvaṣṭhaḥ(?) śokāpagatā nirmalā nimeṣaprahīṇā vikrīḍitābhijñā hetubalikāḥ praṇidhānabalikā ajihmā akuṭilā ete lakṣakoṭīniyutaśatasahasrāvaropitakuśalamūlā utpāṭitamānaśalyā apagatarāgadveṣamohāḥ śuddhāḥ śuddhādhimuktā jinabalapraśastā lokapaṇḍitā uttaptajñānasamudāgatā jinasutāścittaudbilyasamanvāgatāḥ śūrā dṛḍhā amamā akhilā atulā arajaskāḥ sahitā udārā ṛṣabhā hrīmanto dhṛtimantaḥ smṛtimanto matimanto gatimantaḥ prajñāśastrapraharaṇā puṇyavanto dyutimanto vyapagatakhilā malaprahīṇāḥ smṛtiyuktāḥ śāntajñānālambhāḥ| īdṛśā ānanda tasmin buddhakṣetre sattvāḥ saṃkṣiptena ca| vistareṇa punaḥ sacetkalpakoṭīniyutaśatasahasrasthitikenāpyāyuṣpramāṇena tathāgatā nirdiśyeran, naiva śakyaṃ teṣāṃ satpuruṣāṇāṃ guṇaparyantamadhigantum, na ca tathāgatasya vaiśāradyopacchedo bhavet| tatkasya hetoḥ? ubhayamapyeva ānanda acintyamatulyaṃ yadidaṃ teṣāṃ bodhisattvānāṃ guṇāstathāgatasya cānuttaraprajñāpratibhānam||38||
api cānanda uttiṣṭha, paścānmukhībhūtvā puṣpāvakīrṇāñjalīṃ pragṛhya praṇipata| eṣā sā dig yatra sa bhagavānamitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhastiṣṭhati dhriyate yāpayati, dharmaṃ ca deśayati virajo viśuddhaṃ yasya tannāmadheyamanāvaraṇe daśadiśi loke vighuṣṭam ekaikasyāṃ diśi gaṅgānadīvālukāsamā buddhā bhagavanto varṇayanti stuvanti praśaṃsantyasakṛdasakṛdasaṅgavācāprativākyāḥ| evamukte āyuṣmānānando bhagavantametadavocat-icchāmyahaṃ bhagavaṃstamamitābhamamitaprabhamamitāyuṣaṃ tathāgatamarhantaṃ samyaksaṃbuddhaṃ draṣṭum, tāṃśca bodhisattvān mahāsattvān bahubuddhakoṭīniyutaśatasahasrāvaropitakuśalamūlān| samanantarabhāṣitā āyuṣmatānandeneyaṃ vāk, atha tāvadeva so'mitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhaḥ svapāṇitalāttathārūpaṃ raśmiṃ prāmuñcadyadidaṃ koṭīniyutaśatasahasratamaṃ buddhakṣetraṃ mahatāvabhāsena sphuṭamabhūt| tena khalu punaḥ samayena sarvatra koṭīśatasahasrabuddhakṣetrāṇāṃ ye kecitkālaparvatā vā ratnaparvatā vā merumahāmerumucilindamahāmucilindacakravālamahācakravālā vā citayo vā stambhā vā vṛkṣagahanodyānavimānāni divyamanuṣyakāṇi, tāni sarvāṇi tasya tathāgatasya tayā prabhayābhinirbhinnānyabhūvan samabhibhūtāni| tadyathāpi nāma puruṣo vyāmamātrake'nvito dvitīyaṃ puruṣaṃ pratyavekṣedāditye'bhyudgate, evamevāsmin buddhakṣetre bhikṣubhikṣuṇyupāsakopāsikādevanāgayakṣarākṣasagandharvāsuragaruḍakinnaramahoragamanuṣyāmanuṣyāśca tasyāṃ velāyāmadrākṣustamamitābhaṃ tathāgatamarhantaṃ samyaksaṃbuddhaṃ sumerumiva parvatarājaṃ sarvakṣetrābhyudgataṃ sarvā diśo'bhibhūya bhāsamānaṃ tapantaṃ virocamānaṃ vibhrājamānam, taṃ ca mahāntaṃ bodhisattvagaṇaṃ taṃ ca bhikṣusaṃghaṃ yadidaṃ buddhānubhāvena tasyāḥ prabhāyāḥ pariśuddhatvāt| tadyatheyaṃ mahāpṛthivī ekodakajātā bhavet, tatra na vṛkṣā na parvatā na dvīpā na tṛṇagulmauṣadhivanaspatayo na nadīśvabhraprapātāḥ prajñāpayeran, anyatraikārṇavībhūtā mahāpṛthivyekā syāt, evameva tasmin buddhakṣetre nāstyanyatkiṃcilliṅgaṃ vā nimittaṃ vā anyatraiva vyāmaprabhāḥ śrāvakāste ca yojanakoṭīśatasahasraprabhā bodhisattvāḥ| sa ca bhagavānamitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhastaṃ ca śrāvakagaṇaṃ taṃ ca bodhisattvagaṇamabhibhūya sarvā diśaḥ prabhāsayan saṃdṛśyate| tena khalvapi samayena tasyāṃ sukhāvatyāṃ lokadhātau bodhisattvāḥ śrāvakadevamanuṣyāśca sarve te imāḥ sahālokadhātuṃ śākyamuniṃ ca tathāgatamarhantaṃ samyaksaṃbuddhamarhatā bhikṣusaṃghena parivṛtaṃ paśyanti sma dharmaṃ deśayantam||39||
tatra khalu bhagavānajitaṃ bodhisattvaṃ mahāsattvamāmantrayate sma-paśyasi tvamajita amuṣmina buddhakṣetre guṇālaṃkāravyūhasaṃpadam? upariṣṭāccāntarīkṣe ārāmaramaṇīyānyudyānaramaṇīyāni nadīpuṣkariṇīramaṇīyāni nānāratnapadmotpalakumudapuṇḍarīkākīrṇāni? adhastācca dharaṇītalamupādāya yāvadakaniṣṭhabhavanādgaganatalaṃ puṣpābhikīrṇaṃ puṣpāvalisamupaśobhitaṃ nānāratnastambapaṅktiparisphuṭaṃ tathāgatābhinirmitanānādvijasaṃghaniṣevitam? ajito bodhisattva āha-paśyāmi bhagavan| bhagavānāha- paśyasi punastvamajita etānamarān dvijasaṃghān sarvabuddhakṣetraṃ buddhasvareṇābhivijñāpayantaṃ yenaite bodhisattvā nityamavirahitā buddhānusmṛtyā? ajita āha- paśyāmi bhagavan| bhagavānāha- paśyasi punastvamajita atra buddhakṣetre'mūn sattvān yojanaśatasahasrikeṣu vimāneṣvabhirūḍhānantarīkṣe sasatkārān krāmantaḥ? ajita āha- paśyāmi bhagavan| bhagavānāha- tatkiṃ manyase ajita asti kiṃcinnānātvaṃ devānāṃ paranirmitavaśavartināṃ sukhāvatyāṃ lokadhātau manuṣyāṇāṃ vā? ajita āha- ekamapyahaṃ bhagavan nānātvaṃ na samanupaśyāmi yāvanmaharddhikā atra sukhāvatyāṃ lokadhātau manuṣyāḥ| bhagavānāha-paśyasi punastvamajita tatra sukhāvatyāṃ lokadhātāveteṣāṃ manuṣyāṇāmudāreṣu padmeṣu garbhāvāsam? āha-tadyathāpi nāma devāstrāyastriṃśā devā yāmā vā pañcāśadyojanikeṣu vā yojanaśatikeṣu vā pañcayojanaśatikeṣu vā vimāneṣu praviṣṭāḥ krīḍanti ramanti paricārayanti, evamevāhaṃ bhagavan atra sukhāvatyāṃ lokadhātāveteṣāṃ manuṣyāṇāmudāreṣu padmeṣu garbhāvāsaṃ paśyāmi||40||
santi khalu punaratra bhagavan sattvā ya aupapādukāḥ padmeṣu paryaṅkaiḥ prādurbhavanti| tatko'tra bhagavan hetuḥ kaḥ pratyayo yadanye garbhāvāsaṃ prativasanti, anye punaraupapādukāḥ padmeṣu paryaṅkaiḥ prādurbhavanti? bhagavānāha-ye te ajita bodhisattvā anyeṣu buddhakṣetreṣu sthitāḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapattaye vicikitsāmutpādayanti, tena cittena kuśalamūlānyavaropayanti, teṣāmatra garbhāvāso bhavati| ye punarnirvicikitsāmutpādya cchinnakāṅkṣāḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapattaye kuśalamūlānyavaropayanti, buddhānāṃ bhagavatāmasaṅgajñānamevākalpayanti abhiśraddadhati adhimucyante, te aupapādukāḥ padmeṣu paryaṅkaiḥ prādurbhavanti| ye te ajita bodhisattvā mahāsattvā anyatra buddhakṣetreṣu sthitāścittamutpādayanti amitābhasya tathāgatasyārhataḥ samyaksaṃbuddhasya darśanāya, na vicikitsāmutpādayanti, na kāṅkṣanti asaṅgaṃ buddhajñānam, svakuśalamūlaṃ cābhiśraddadhati, teṣāmaupapādukānāṃ paryaṅkaiḥ prādurbhūtānāṃ muhūrtamātreṇa evaṃrūpaḥ kāyo bhavati tadyathānyeṣāṃ ciropapannānāṃ sattvānām| paśya ajita prajñāviśeṣaṃ prajñāvaimātryaṃ prajñāparihāṇiṃ prajñāparīttatām-yattu hitāya pañcavarṣaśatāni parihīṇā bhavanti buddhadarśanādbodhisattvadarśanāddharmaśravaṇāddharmasaṃkathanāt| kuśalamūlacaryāyāḥ parihīṇā bhavanti sarvakuśalamūlasaṃpattibhiḥ yadidaṃ vicikitsāpatitaiḥ saṃjñāmanasikāraiḥ| tadyathāpi nāma ajita rājñaḥ kṣatriyasya mūrdhābhiṣiktasya bandhanāgāraṃ bhavetsarvasauvarṇavaiḍūryapratyuptamavasaktapaṭṭamālyadāmakalāpaṃ nānāraṅgavibhavavitānaṃ dūṣyapaṭṭasaṃchannaṃ nānāpuṣpakusumābhikīrṇamudāradhūpanirdhūpitaṃ prāsādaharmyaniryūhagavākṣavedikātoraṇavicitraṃ saptaratnaṃ kiṅkiṇījālasaṃchannaṃ caturasraṃ catuḥsthūṇaṃ caturdvāraṃ catuḥsopānam| tatra tasya sa rājñaḥ putraḥ kenacideva kṛtyena prakṣipya jāmbūnadasuvarṇamayairnigaḍairbaddho bhavati| tasya ca tatra paryaṅkaḥ prajñaptaḥ syādanekagoṇikāstīrṇastūlikāparṇakāstīrṇaḥ kāliṅgaprāvaraṇapratyāstaraṇasottarapadacchada ubhayāntalohitopadhānaścitro darśanīyaḥ| sa tatra tadābhiṣaṇṇo vā abhisaṃpanno vā bhavet| bahu cāsyānekavidhaṃ śuci vinītaṃ pānabhojanaṃ tatropanāmyeta| tatkiṃ manyase ajita udārastasya rājaputrasya sa paribhogo bhavet? ajita āha-udāro bhagavan| bhagavānāha- tatkiṃ manyase ajita api tvāsvādayettatra niśāmayecca, tena vā tuṣṭiṃ vidyāt? āha-no hīdaṃ bhagavan| api tu khalu punaryadyapanītya rājñā tatra bandhanāgāre prakṣipto bhavet, sa tato mokṣamevākāṅkṣet| abhijātān kumārānamātyān stryāgārān śreṣṭhino gṛhapatīn koṭṭarājāṃśca paryeṣayet, ya enaṃ tato bandhanāgārātparimocayeyuḥ| kiṃcāpi bhagavaṃstasya rājakumārasya tatra bandhānāgāre nābhiratiḥ, nātra parimucyate, yāvanna rājā prasādamupadarśayati| bhagavānāha-evameva ajita ye te bodhisattvā vicikitsāpatitāḥ kuśalamūlānyavaropayanti, kāṅkṣati buddhajñānam, kiṃcāpi tena buddhanāmaśravaṇena tena ca cittaprasādamātreṇa atra sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapadyante, na tu khalvaupapādukāḥ padmeṣu paryaṅkaiḥ prādurbhavanti, api tu padmeṣu garbhāvāsaṃ prativasanti| kiṃcāpi teṣāṃ tatrodyānavimānasaṃjñāḥ saṃtiṣṭhante, nāstyuccāraprasrāvam, nāsti kheṭasiṃhāṇakam, na pratikūlaṃ manasaḥ pravartate, api tu khalu punaḥ pañca varṣaśatāni virahitā bhavanti buddhadarśanena dharmaśravaṇena bodhisattvadarśanena dharmasāṃkathyaviniścayena sarvakuśalamūlena dharmacaryābhiśca| kiṃcāpi te tatra nābhiramante na tuṣṭiṃ vijānanti, api tu khalu punaḥ pūrvāparān kṣapayitsate bhūyastataḥ paścānniskrāmanti| na caiṣāṃ tato niṣkrāmatāṃ niṣkramaḥ prajñāyate ūrdhvamadhastiryagvā| paśya ajita etarhi nāma pañcabhirvarṣaśatairbahūni buddhakoṭīniyutaśatasahasropasthānāni syurbahvaparimāṇāsaṃkhyeyāprameyāṇi ca kuśalamūlānyavaropayitavyāni| tatsarvaṃ vicikitsādoṣeṇa vināśayanti| paśya ajita kiyanmahate'narthāya bodhisattvānāṃ vicikitsā saṃvartata iti| tasmāttarhi ajita bodhisattvairnirvicikitsairbodhaye cittamutpādya kṣipraṃ sarvasattvahitasukhādhānāya sāmarthyapratilambhārthaṃ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapattaye kuśalamūlāni pariṇāmayitavyāni, yatra bhagavānamitābhastathāgato'rhan samyaksaṃbuddhaḥ||41||
evamukte ajito bodhisattvo bhagavantametadavocat-kiṃ punarbhagavan bodhisattvā ito buddhakṣetrātpariniṣpannā anyeṣāṃ vā buddhānāṃ bhagavatāmantikātsukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante? bhagavānāha-ito hyajita buddhakṣetrād dvāsaptatikoṭīniyutāni bodhisattvānāṃ pariniṣpannāni yāni sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante pariniṣpannānāmavaivartikānāṃ bahubuddhakoṭīniyutaśatasahasrāṇyavaropitaiḥ kuśalamūlaiḥ, kaḥ punarvādastataḥ parīttataraiḥ kuśalamūlaiḥ duṣprasahasya tathāgatasyāntikādaṣṭādaśakoṭīniyutaśatāni bodhisattvānāṃ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| pūrvāntare digbhāge ratnākaro nāma tathāgato viharati| tasyāntikānnavatibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| jyotiṣprabhasya tathāgatasyāntikāddvāviṃśatibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| amitaprabhasya tathāgatasyāntikātpañcaviṃśatibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| lokapradīpasya tathāgatasyāntikātṣaṣṭibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| nāgābhibhuvastathāgatasyāntikāccatuḥṣaṣṭirbodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| virajaḥprabhasya tathāgatasyāntikātpañcaviṃśatibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| siṃhasya tathāgatasyāntikātṣoḍaśabodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| siṃhasya tathāgatasyāntikādaṣṭādaśabodhisattvasahasrāni sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatasyante| śrīkūṭasya tathāgatasyāntikādekāśītibodhisattvakoṭīniyutāni sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| narendrarājasya tathāgatasyāntikāddaśabodhisattvakoṭīniyutāni sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| balābhijñasya tathāgatasyāntikāddvādaśabodhisattvasahasrāṇi sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| puṣpadhvajasya tathāgatasyāntikātpañcaviṃśatirvīryaprāptā bodhisattvakoṭya ekaprasthānaprasthitā ekenāṣṭāhena navatikalpakoṭīniyutaśatasahasrāṇi paścānmukhīkṛtya sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| jvalanādhipatestathāgatasyāntikāddvādaśabodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante| vaiśāradyaprāptasya tathāgatasyāntikādekonasaptatibodhisattvakoṭyaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyante amitābhasya tathāgatasya darśanāya vandanāya paryupāsanāya paripṛcchanāya paripraśnīkaraṇāya| etena ajita paryāyeṇa paripūrṇakalpakoṭīniyutaṃ nāmadheyāni parikīrtayeyaṃ teṣāṃ tathāgatānāṃ yebhyaste bodhisattvā upasaṃkrāmanti sukhāvatyāṃ lokadhātau tamamitābhaṃ tathāgataṃ draṣṭuṃ vanditu paryupāsitum, na śakyaśca paryanto'dhigantum||42||
paśya ajita kiyatsulabdhalābhāste sattvā ye'mitābhasya tathāgatasyārhataḥ samyaksaṃbuddhasya nāmadheyaṃ śroṣyanti| nāpi te sattvā hīnādhimuktikā bhaviṣyanti ye'ntaśaekacittaprasādamapi tasmiṃstathāgate'bhilapyante, asmiṃśca dharmaparyāye| tasmāttarhi ajita ārocayāmi vaḥ, prativedayāmi sadevakasya lokasya purato'sya dharmaparyāyasya śrāvaṇāya| trisāhasramahāsāhasramapi lokadhātumagnipūrṇamavagāhya atikramaikacittotpādamapi pratisāro na kartavyaḥ| tatkasya hetoḥ? bodhisattvakoṭyo hyajita aśravaṇādeṣāmevaṃrūpāṇāṃ dharmaparyāyāṇāṃ vivartante'nuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ| tasmādasya dharmaparyāyasyādhyāśayena śravaṇodgrahaṇadhāraṇārthaṃ paryāvāptaye vistareṇa saṃprakāśāya bhāvanārthaṃ ca sumahadvīryamārabdhavyam| antaśa ekarātriṃdinamapi, ekagodohamātramapi, antaśaḥ pustakāvaropitaṃ kṛtvā sulikhito dhārayitavyaḥ| śāstṛsaṃjñā ca tatropādhyāye kartavyā ya icchati kṣipramaparimitān sattvānavaivartikatve'nuttarāyāḥ samyaksaṃbodheḥ pratiṣṭhāpayitum, tacca tasya bhagavato'mitābhasya tathāgatasya buddhakṣetraṃ draṣṭum, ātmanaśca viśiṣṭāṃ buddhakṣetraguṇālaṃkāravyūhasaṃpadaṃ parigrahītumiti| api tu khalu ajita atyarthaṃ sulabdhalābhāste sattvā avaropitakuśalamūlāḥ pūrvajinakṛtādhikārā buddhādhiṣṭhitāśca bhaviṣyanti, yeṣāmanāgate'dhvani yāvatsaddharmavipralope vartamāne ime evaṃrūpā udārā dharmaparyāyāḥ sarvabuddhasaṃvarṇitāḥ sarvabuddhapraśastāḥ sarvabuddhānujñātā mahataḥ sarvajñajñānasya kṣipramāhārakāḥ śrotrāvabhāsamāgamiṣyanti| ye śrutvā codāraprītiprāmodyaṃ pratilapsyanta udgrahīṣyanti dhārayiṣyanti vācayiṣyanti paryavāpsyanti parebhyo vistareṇa saṃprakāśayiṣyanti, bhāvanābhiratāśca bhaviṣyanti, antaśo likhitvā pūjayiṣyanti, bahu ca te puṇyaṃ prasaviṣyanti, yasya na sukarā saṃkhyā kartum| iti hi ajita yattathāgatena kartavyam, kṛtaṃ mayā| yuṣmābhiridānīṃ nirvicikitsāyogaḥ karaṇīyaḥ| mā saṃśayata asaṅgamanāvaraṇaṃ buddhajñānam| mā bhūtsarvākārāvaropitaratnamaye bandhanāgāre praveśaḥ| durlabho hi ajita buddhotpādaḥ| durlabhā dharmadeśanā| durlabhā kṣaṇasaṃpat| ākhyātā ca ajita mayā sarvakuśalamūlapāramitāprāptiḥ| yūyamidānīmabhiyujyata pratipadyadhvam| asya khalu punarajita dharmaparyāyasya mahatīṃ parīndanāṃ karomi| avipraṇāśāya buddhadharmāṇāmanantardhānāya parākramiṣyatha | mā tathāgatājñāṃ kṣobhayiṣyatha ||43||
atha khalu punarbhagavāṃstasyāṃ velāyāmimā gāthā abhāṣata-
na me akṛtapuṇyānāṃ śravā bheṣyanti īdṛśāḥ|
ye tu te śūra siddhārthāḥ śroṣyanti ca imāṃ giram||49||
dṛṣṭo yaiśca hi saṃbuddho lokanāthaḥ prabhaṃkaraḥ||
sagauravaiḥ śruto dharmaḥ prītiṃ prāpsyanti te parām||50||
na śakta hīnehi kusīdadṛṣṭibhiḥ
buddhāna dharmeṣu prasāda vinditum|
ye buddhakṣetreṣu akārṣi pūjāṃ
trailokanāthāna caryāsu śikṣiṣu||51||
yathāndhakāre puruṣo hyacakṣuḥ
mārgaṃ na jāne kutu saṃprakāśayet|
sarvaṃ tathā śrāvaka buddhajñāne
ajānakāḥ kiṃ punaradya sattvāḥ||52||
buddho hi buddhasya guṇāṃ prajānate
na devanāgāsurayakṣaśrāvakāḥ|
anekabuddhāna pi no gatī yatho
buddhasya jñāne hi prakāśyamāne ||53||
yadi sarvasattvāḥ samatā bhaveyuḥ
viśuddhajñāne paramārthakovidāḥ|
te kalpakoṭīratha vāpi uttare
naikasya buddhasya guṇān katheyuḥ||54||
atrāntare nirvṛta te bhaveyuḥ
prakāśamānā bahukalpakoṭīḥ|
na ca buddhajñānasya pramāṇu labhyate
tathā hi jñānāścaryaṃ jinānām||55||
tasmānnaraḥ paṇḍita vijñajātiyaḥ
yo mahya vākyamabhiśraddadheya|
kṛtsnāṃ sa sākṣājjinajñānamārgān
buddhaḥ prajānaṃ ti girāmudīrayet||56||
kadāci labhyati manuṣyalābhaḥ
kadāci buddhāna pi prādurbhāvaḥ|
śraddhārthaprajñā sucireṇa labhyate
tasyārthaprāptyai janayet vīryam||57||
ya īdṛśāṃ dharma śruṇitva śreṣṭhāṃ
labhyanti prītiṃ sugataṃ smarantaḥ |
te mitramasmākamatītamadhvani
ye cāpi bodhāya jananti chandam|| 58|| iti|| 44||
asmin khalu punardharmaparyāye bhāṣyamāṇe dvādaśānāṃ sattvaniyutakoṭīnāṃ virajo vigatamalaṃ dharmeṣu dharmacakṣurviśuddham| caturviṃśatyā koṭiniyutaśataphalaṃ prāptam| aṣṭānāṃ bhikṣuśatānāmanupādāyāsravebhyaścittāni vimuktāni| pañcaviṃśatyā bodhisattvakoṭībhiranutpattikadharmakṣāntiḥ pratilabdhā| devamānuṣikāyāśca prajāyāścatvāriṃśatkoṭīniyutaśatasahasrāṇāmanutpannapūrvāṇyanuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau cittānyutpannāni| sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapattaye ca kuśalamūlānyavaropitāni bhagavato'mitābhasya tathāgatasya darśanakāmatayā| sarve ca te tatropapadya anupūrveṇa mañjusvarā nāma tathāgatā anyeṣu lokadhātuṣūpapatsyante| aśītiśca niyutakoṭyo dīpaṃkare tathāgate labdhakṣāntikā avaivartikā anuttarāyāḥ samyaksaṃbodheramitāyuṣaiva tathāgatena paripācitāḥ pūrvabodhisattvacaryāṃ carantastāśca sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapadya pūrvapraṇidhānacaryāḥ paripūrayiṣyanti||45||
tasyāṃ velāyāmayaṃ trisāhasramahāsāhasralokadhātuḥ ṣadvikāraṃ prākampat| vividhāni ca prātihāryāṇi saṃdṛśyante sma| pṛthivyāṃ saṃskṛtamabhūt| divyamānuṣyakāni ca tūryāṇi saṃpravāditānyabhūvan| anumodanāśabdena ca yāvadakaniṣṭhabhuvanaṃ vijñaptamabhūt||46||
idamavocadbhagavānāttamanāḥ| ajito bodhisattvo mahāsattva āyuṣmāṃścānandaḥ sā ca sarvāvatī parṣat sadevamānuṣāsuragaruḍagandharvasya loko bhagavato bhāṣitamabhyanandanniti||47||
bhagavato'mitābhasya tathāgatasya sukhāvatīguṇavarṇaparikīrtanaṃ bodhisattvānāmavaivartyabhūmipraveśaḥ amitābhasya parivartaḥ sukhāvatīvyūho mahāyānasūtraṃ samāptam||
ye dharmā hetuprabhavā hetuṃ teṣāṃ tathāgato hyavadat|
teṣāṃ ca yo nirodha evaṃ vādī mahāśramaṇaḥ||
Start writing here...