LỜI TỰA
Kinh Thọ Ký cho A-ji-ta-se-na (A-ji-ta-se-na-vyā-ka-ra-ṇam) được Pháp sư Na-ren-dra-đat-ta (Nhân Vương Thí) biên chép bằng văn hệ lai giữa Prakit và Sanskrit tiền cổ điển, là văn hệ ngôn ngữ phổ biến được sử dụng trong thời kỳ của đức Phật tại xứ Ma-Kiệt-Đà và miền Bắc Ấn Độ, xuất hiện vào thế kỷ thứ 5 - 4 trước Công nguyên, trong thời gian đức Thế Tôn còn tại thế và khoảng 100 năm kể từ thời điểm đức Thế Tôn nhập Niết Bàn.
Bồ Tát Bā-la-siṃ-ha (Sư Tử Trẻ) là người ủng hộ, bố thí và cúng dường cho Pháp sư Na-ren-dra-đat-ta trong suốt thời gian biên chép và ấn tống Kinh, và: “nguyện cầu cho tất cả những người vợ, con cái, cùng với cha mẹ, những bậc đã chịu đựng những gian khổ cùng cực, tất cả nghiệp chướng của họ đều được tiêu trừ.
Nguyện đem công đức này, trải khắp tất cả mọi phương, đều mang đến điềm lành và sự cát tường cho tất cả chúng sanh.
Nguyện mang đến sự giải thoát tối thượng đến với các Bậc hiền Trí, và đồng thời đến với tất cả chúng sanh.
Mọi công đức được tích luỹ nơi đây, nguyện cho tất cả chúng sanh đều đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng giống như những bậc Thiện Tri Thức chân chính.”
Quyển Kinh này là một trong những Kinh điển thành văn sớm nhất của Phật giáo sơ kỳ, xuất hiện trước cả hệ ngôn ngữ thành văn Sanskrit cổ điển và Pàli, và là một tư liệu rất quý cho Giới học giả nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết, xã hội, phân bổ dân cư, và quản lý nhà nước trong thời kỳ đức Phật còn tại thế tại xứ Ma-Kiệt-Đà và khu vực miền Bắc Ấn Độ.
Quyển Kinh này ghi lại bài giảng Pháp của đức Thế Tôn về công đức cúng dường bữa ăn khất thực cho các Tỳ Kheo xuất gia, cách thức gieo trồng thiện căn khi nghe tiếng chuông của các Tự viện - Tịnh xá của đức Phật, và công đức tuỳ hỷ khi xây dựng am thất, chỗ trú xứ cho Tỳ Kheo xuất gia, công đức nương tựa và học tập theo đúng chánh pháp của đức Phật Thế Tôn, và quả báo đạt được Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác, trở thành một vị Phật Toàn Giác của người gieo trồng thiện căn đúng phương pháp như vậy.
Kinh Thọ Ký cho A-ji-ta-se-na này được phân loại trong Tạng Sanskrit, trong lịch sử chưa từng được dịch ra tiếng Hán và các ngôn ngữ Á Đông khác, và không có tài liệu dịch thuật tương đương trong các Bộ Đại Tạng Kinh được kiết tập.
Do nhận thấy điểm đặc sắc và độc đáo của Kinh này, nên Quang Đăng phát tâm dịch từ tiếng Prakit-Sanskrit sang tiếng Việt, để Quý độc giả có thêm nguồn tư liệu quý, biết được con đường gieo trồng căn lành cho chính mình để hướng đến Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác.
Cầu mong cho tất cả những ai nghe được quyển Kinh này, đều được an lạc hạnh phúc, trong một đời có thể sống với tự tánh trí tuệ toàn giác của mình.
Dịch xong ngày 7/3/2025, tại Saigon, Vietnam
TS. Trần Quang Đăng kính ghi
TIỂU SỬ CỦA PHÁP SƯ NARENDRADATTA
Pháp sư Narendradatta xuất thân từ một dòng vương tộc tại xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), một trong những vương quốc hùng mạnh nhất tại Ấn Độ cổ đại, từng là trung tâm chính trị và văn hóa quan trọng của thời kỳ đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ông ra đời vào thời kỳ Phật giáo đang phát triển mạnh mẽ tại Bắc Ấn Độ, trong giai đoạn giao thoa giữa thời kỳ đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế và thời kỳ hình thành hệ thống kinh điển viết tay đầu tiên.
Bối cảnh lịch sử
- Thế kỷ 5 – 4 TCN: Đây là thời kỳ đức Phật Thích Ca Mâu Ni (khoảng 563 – 483 TCN) hoằng pháp tại các vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), Ko-sa-la, và Vai-sha-li. Lúc này, giáo pháp của Ngài chủ yếu được truyền miệng bằng tiếng Prā-krit (thường là phương ngữ Ar-dha-mā-ga-dhī) bởi các vị đệ tử.
- Thế kỷ 4 – 3 TCN: Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, vương quốc Ma Kiệt Đà dưới thời vua A Dục (Aśoka, trị vì khoảng 268 – 232 TCN) đã đóng vai trò quan trọng trong việc ghi chép và truyền bá giáo pháp. Trong thời kỳ này, các kinh điển Phật giáo bắt đầu được ghi chép bằng chữ viết, sử dụng các dạng văn ngữ Sanskrit lai Prākrit hoặc hoàn toàn bằng Prākrit.
Pháp sư Narendradatta trong lịch sử
Pháp sư Narendradatta được cho là xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ 4 TCN, tức là khoảng 100 - 200 năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, trong thời kỳ Phật giáo đang dần chuyển từ hệ truyền khẩu sang văn bản hóa kinh điển dưới sự bảo trợ mạnh mẽ của vương triều Ma Kiệt Đà.
Trong quá trình truyền bá Phật giáo rộng khắp, các bậc học giả hoàng tộc như Narendradatta đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển ngữ, biên tập và truyền bá kinh điển.
Ông đã sử dụng văn hệ Prākrit-Sanskrit lai, một dạng ngôn ngữ phổ biến trong tầng lớp trí thức miền Bắc Ấn Độ lúc bấy giờ, giúp cho kinh điển dễ dàng lan truyền giữa cả tầng lớp Bà La Môn, vương hầu và cư sĩ Phật tử.
Ảnh hưởng của Pháp sư Narendradatta
Ông có thể là một trong những pháp sư tiên phong trong việc ghi chép kinh điển bằng văn bản, sử dụng hỗn hợp Sanskrit và Prākrit thay vì chỉ truyền khẩu như trước.
Kinh A-ji-ta-se-na-vyā-ka-ra-ṇa, do ông biên chép, phản ánh sự chuyển đổi từ hình thức truyền khẩu sang văn bản hóa, là dấu mốc quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
Khi biên chép Kinh A-ji-ta-se-na-vyā-ka-ra-ṇa, Narendradatta không sử dụng hoàn toàn văn hệ Sanskrit thuần túy, mà thay vào đó, ông viết bằng một thứ ngôn ngữ lai giữa Prākrit và Sanskrit – đây là lối văn ngữ phổ biến trong giới học giả miền Bắc Ấn Độ thời đức Phật còn tại thế.
Lối viết này phản ánh sự chuyển mình của nền văn học Phật giáo giai đoạn đầu, khi kinh điển không chỉ được bảo tồn trong ngôn ngữ Sanskrit của giới Bà La Môn, mà còn mở rộng bằng những dạng ngôn ngữ gần gũi hơn với tầng lớp cư sĩ, vương hầu, và trí thức không thuộc truyền thống Vệ Đà.
Ông cũng là người giữ vai trò quan trọng trong sự kết nối giữa hoàng tộc Ma Kiệt Đà với Phật giáo, giúp thúc đẩy sự bảo trợ Phật giáo của các triều đại sau.
KINH THỌ KÝ CHO A-JI-TA-SE-NA
TS. Trần Quang Đăng dịch từ Prakit-Sanskrit sang Việt Văn
Dịch xong ngày 7/3/2025 tại Saigon, Việt Nam
Kính thỉnh tự tánh của chính mình, là hoàn toàn quy mạng Tự tánh Trí Tuệ Toàn Tri
Như vậy, tôi nghe: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành Śrā-vas-ti - Xá Vệ, trong khu vườn Je-ta-va-na A-nā-tha-piṇ-đi-ka - Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng với đại chúng Tỳ Kheo gồm 1.250 người.
Trong số đó, có các vị Trưởng lão như A Nhã Kiều Trần Như, Ma-hā-nā-ma, Re-va-ta, Vak-ku-la, Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, cùng với vô số Thanh Văn.
Tất cả họ đi đến nơi đức Thế Tôn và đến tinh xá Je-ta-va-na - Kỳ Viên, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, rồi đứng ở phía trước Ngài, cùng với 32.000 vị Bồ Tát.
Trong số đó, có các vị Đại Bồ Tát như Phát Khởi Tâm Chuyển Bánh Xe Chánh Pháp Đại Bồ Tát, Bất Thoái Chuyển Đại Bồ Tát, Di Lặc Đại Bồ Tát, Quán Thế Âm Đại Bồ Tát, và Đại Thế Chí Đại Bồ Tát.
Như vậy, có 32.000 vị Bồ Tát dẫn đầu.
Tất cả họ đi đến nơi đức Thế Tôn và đến tinh xá Kỳ Viên, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, rồi đứng ở phía trước Ngài.
Lúc bấy giờ, vào buổi sáng sớm, đức Thế Tôn khoác y mang bát và đi vào đại thành Xá Vệ để khất thực.
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Ā-nan-đa rằng:
Này Ā-nan-đa, hãy đi và mang đến cái bát có hình bánh xe đang được treo.
Ngay khi nghe lệnh từ đức Thế Tôn, Trưởng lão Ā-nan-đa đã mang đến cái bát hình bánh xe đang được treo và dâng lên đức Thế Tôn.
Sau đó, Trưởng lão Ā-nan-đa chắp tay cung kính và thưa lên đức Thế Tôn bằng các bài kệ như sau:
1. Khi Ngài đi vào thành khất thực,
Ngài cứu độ vô số chúng sinh.
Ngài giải thoát vô lượng hữu tình,
Khỏi sợ địa ngục, sự sinh tử,
Và khổ lớn già suy ưu não.
Bị chìm đắm khổ đau luân hồi,
Khổ đau lớn, sợ hãi khốc liệt.
2. Thầy thế gian, Ngài giải thoát họ,
Bậc đại oai lực, người xứng đáng,
Nhận sự cúng dường thật tối thượng,
Sau khi Ngài cứu độ cho họ,
Ngài lại tiếp tục quay trở về.
Sau khi Trưởng lão Ā-nan-đa thuyết lên những bài kệ này, liền giữ im lặng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang ở không xa đại thành Xá Vệ.
Khi ấy, tất cả những cửa sổ, cổng vòm, và lan can làm bằng vàng, pha lê spha-ṭi-ka, và bạc bỗng nhiên xuất hiện.
Cũng như vậy, trong đại thành Xá Vệ, có một nhóm đông người đã tụ hội.
Khi ấy, nhóm đông người ấy khởi lên nghi hoặc rằng: 'Nguyên nhân là gì và duyên là gì khiến các điềm lành xuất hiện trong thành phố này? Mong rằng thành này không bị hủy hoại thành tro bụi!'
Khi ấy, trong đại hội chúng ấy, có một cụ già đã sống hàng trăm ngàn năm, đang có mặt ở đó.
Lúc bấy giờ, người ấy an ủi đại hội chúng và nói như sau:
“Chớ sợ hãi, này các thiện nam tử! Ở ngay tại vùng đất này có một tinh xá tên là Kỳ Viên.
Tại đó, có đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và giới hạnh, bậc Thiện Thệ, bậc thầy vô thượng hiểu rõ thấu suốt thế gian, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, bậc Giác Ngộ Toàn Giác, bậc Thế Tôn.
Chính Ngài đã đi vào đại thành Xá Vệ để khất thực.
Vào lúc Ngài ấy đến, những điềm lành này đã xuất hiện.”
Khi ấy, đại hội chúng ấy chắp tay và hỏi cụ già rằng:
Khi đức Thế Tôn Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác được tán thán công đức và phẩm hạnh, và những điềm lành này đã xuất hiện.
Nếu người nào chỉ cần nhìn thấy đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác ấy, thì phước báu, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu được tích lũy nơi họ sẽ lớn như thế nào?
Lúc bấy giờ, cụ già ấy vì muốn tán thán công đức của đức Thế Tôn đã thuyết kệ này trước hội chúng ấy:
3. Nếu ai mà nghe được danh hiệu,
Của bậc Hiểu Thấu Suốt Thế Gian,
Người ấy thoát khỏi khổ luân hồi,
Họ không bao giờ đọa ác đạo,
Và họ nhanh chóng sinh cõi trời.
4. Nếu ai mà nghe được danh hiệu,
Của bậc Hiểu Thấu Suốt Thế Gian,
Với tâm kiên cố, người ấy đã,
Tích lũy công đức vô số kiếp,
Bậc Đại Oai Đức, bậc Thiện Thệ,
Bậc Đại Thánh, qua vô số kiếp,
Không thể suy nghĩ và tưởng tượng,
Họ là Bồ Tát đã an trụ,
Trải vô số kiếp cát sông Hằng,
Người ấy không còn đoạ đường ác.
5. Nếu ai mà nghe được danh hiệu,
Của bậc Hiểu Thấu Suốt Thế Gian,
Họ không bao giờ đọa ác đạo,
Qua vô số kiếp không thể nghĩ,
Người ấy có thể luôn trở thành,
Một bậc vua Chuyển Luân Thánh Vương.
6. Nếu ai giữ gìn và thọ trì,
Danh hiệu của bậc Thế Gian Giải,
Tất cả nghiệp ác tạo quá khứ,
Tất cả sẽ nhanh chóng tiêu trừ.
7. Người ấy đều có thể trở thành,
Địa vị vua Thiên Đế sak-ra,
Vua của chư thiên, Đại Oai Đức,
Cũng đã tích lũy vô số kiếp,
Với công đức không thể nghĩ bàn.
8. Người ấy sẽ sinh về cõi Phật,
Cõi Cực Lạc su-khā-va-tī,
Ngồi kiết già, vị Bồ Tát ấy,
Giọng nói thanh tịnh, âm vi diệu,
Như giọng của Văn Thù Bồ Tát.
Và đạt được thọ mạng kéo dài,
Trải vô số kiếp như mưa rơi.
9. Và người ấy sẽ không bao giờ,
Đọa vào ác đạo, các đường dữ,
Cho ai gìn giữ và thọ trì,
Danh hiệu của bậc Thế Gian Giải.
Bấy giờ, cụ già ấy, sau khi tán thán công đức của đức Thế Tôn trước đại hội chúng, liền giữ im lặng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đi vào đại thành Xá Vệ từ cổng phía Đông. Tại đó, ngay trước cổng thành, có 120 triệu hoa sen pad-mā bỗng nhiên xuất hiện. Và trên những đóa sen ấy, có 120 triệu vị Bồ Tát xuất hiện, ngồi trong thế kiết già, với lòng thành kính chắp tay.
Ngay khi đức Thế Tôn vừa bước vào đại thành Xá Vệ, có 9.900 tỷ tỷ chúng sinh đã được an lập vào cõi Phật Cực Lạc su-khā-va-ti. Có 8.400 tỷ tỷ chúng sinh đầy đủ hỷ lạc đã được an lập vào cõi Phật của đức Phật Bất Động Như Lai.
Khi ấy, đức Thế Tôn cùng với Trưởng lão Ā-nan-đa đến nhà của cô gái nghèo tên là Na-ga-ra-va-lam-bi-kā (Thành Ỷ).
Lúc ấy, đức Thế Tôn đến nhà của cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā để làm quay bánh xe khất thực.
Lúc bấy giờ, cô gái ấy, sau khi nghe âm thanh của tiếng bước chân của bánh xe ấy, liền sinh tâm nghi hoặc:
Nguyên nhân là gì? Duyên cớ là gì? Chưa bao giờ có vị khất sĩ nào đến nhà ta.
Khi ấy, cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā ngồi trong căn nhà trống, không còn thức ăn, không còn bất kỳ vật dụng hay tài sản nào, cổ họng nghẹn ngào nước mắt, khóc lóc, than thở, đứng đó, nàng tìm kiếm một con dao sắc bén, tiếp tục khóc than, và có ý định tự tử.
Bấy giờ, cô gái ấy ngồi trong căn nhà trống, than thở, nghẹn ngào nước mắt, khóc lóc, và cất lên những lời than thở như sau:
10. Ôi thật là khổ đau,
Trong nhà nghèo khổ này!
Thà rằng ta chết đi,
Còn hơn tiếp tục sống.
Ta có thể làm gì,
Còn với mạng sống này?
Khi mà thân xác ta,
Bị đau khổ hành hạ.
11. Ta biết nương vào ai,
Ai có thể cứu ta?
Hôm nay, ta thực sự,
Đã trở thành một người,
Không có nơi nương tựa.
Bởi vì ta sinh ra,
Trong một nhà nghèo khổ.
Sau đó, cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā, sau khi nói lên những bài kệ than thân trách phận này trong căn nhà trống mà cô ngồi, liền giữ im lặng.
Khi ấy, một vị thiên tử thuộc cõi trời Tịnh Cư Śud-dha-vā-sa-kā-yi-ka, đang đứng giữa hư không, suy nghĩ rằng:
Mong rằng đức Thế Tôn sẽ nhìn thấy cô gái này.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai, người đã thực hành vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ pháp khổ hạnh, hiện đang đi đến trước nhà của cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā.
Lúc ấy, vị thiên tử cõi Tịnh Cư Śud-dha-vā-sa-kā-yi-ka, mang theo một chuỗi ngọc trai trị giá trăm ngàn lượng vàng, một hộp đựng thức ăn ngon thượng hạng, cùng với y phục lụa quý từ xứ Kā-śī, rồi đến nhà của cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā.
Khi ấy, vị thiên tử cõi Tịnh Cư śud-dha-vā-sa-kā-yi-ka nói với cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā rằng:
Này cô gái, hãy khoác lên mình những y phục lụa Kā-śī này cùng với những món trang sức quý có giá trị hàng trăm ngàn lượng vàng. Sau khi khoác lên mình chuỗi ngọc trai trị giá trăm ngàn lượng vàng này và mang theo hộp đựng thức ăn ngon thượng hạng này, cô hãy dâng lên đức Thế Tôn.
Lúc đó, cô gái ấy khoác lên mình y phục lụa Kā-śī, cầm lấy chuỗi ngọc trai trị giá trăm ngàn lượng vàng và hộp đựng thức ăn ngon, rồi đi đến chỗ đức Thế Tôn đang đứng trước nhà. Sau khi đến gần, cô gái liền dâng lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā rằng:
“Này cô gái, hãy hồi hướng công đức này để trở thành một vị Phật Toàn Giác giống như các đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, như đức Phật Vi-paś-sin - Bậc Thấy Phân Biệt Chơn Chánh Như Lai, đức Phật Śi-khin - Bậc Đạt Đỉnh Cao Trí Tuệ Như Lai, đức Phật Vi-śva-bhū - Thế Giới Toàn Thiện Như Lai, đức Phật Ka-kut-sun-đa - Lập Địa Hoan Hỷ Như Lai, đức Phật Ka-na-ka-mu-ni - Kim Thánh Như Lai, đức Phật Kāś-sa-pa - Đại Địa Như Lai và như các bậc hiền thánh khác đã từng hồi hướng.
Cô sẽ đạt được sự giải thoát khỏi thân phận nữ giới và thoát khỏi cảnh nghèo khổ.”
Khi đó, cô gái ấy, sau khi hồi hướng công đức của bữa cúng dường như lời đức Phật vừa dạy, liền dâng thức ăn và y áo lên đức Thế Tôn, và nguyện rằng:
"Nguyện nhờ thiện căn của sự cúng dường bữa ăn này, con sẽ không bao giờ sinh vào cảnh nghèo khổ trong bất kỳ đời nào nữa.”
Khi ấy, cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā, sau khi hồi hướng công đức từ bữa cúng dường và dâng thức ăn và y áo lên đức Thế Tôn, liền bắt đầu quay vô nhà.
Khi ấy, đức Thế Tôn liền gọi cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā:
"Hãy quay lại, này cô gái. Ta nhớ lại nhân duyên từ tiền kiếp của cô. Ta sẽ tuyên thuyết về điều ấy."
Khi ấy, cô gái ấy quay trở lại, phủ phục toàn thân và gieo mình xuống trước đức Thế Tôn. Sau đó, cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ như sau:
12. Chắc chắn, do nghiệp tạo đời trước,
Nên con sinh trong gia đình nghèo.
Xin Ngài hãy rủ lòng từ bi,
Với con, là người đang đau khổ.
13. Xin cứu con khỏi cảnh địa ngục,
Xin rủ lòng từ bi với con,
Người đang chịu đựng cảnh khổ đau.
Con đã sinh trong thân người nữ,
Thưa Đạo Sư, hiểu thấu thế gian,
Bậc giải thoát khỏi sanh, già, bệnh,
Và thoát khỏi cảnh chết sầu muộn.
14. Xin Ngài hãy giải thoát cho con,
Thoát khỏi hoàn cảnh đau khổ này.
Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Để cho con, làm nơi nương tựa,
Và cứu độ tối thượng cho con.
15. Xin Ngài hãy giải thoát cho con,
Kẻ đang chìm đắm trong đau khổ.
Bậc Đạo Sư, Ngài lập thệ rằng,
Để cứu độ tất cả chúng sinh,
Ở trong cõi Diêm Phù Đề này:
16. “Những chúng sinh hiện đang trú ngụ,
Khắp ở trong mười phương thế giới,
Ta sẽ khiến tất cả chúng sinh,
Đều đạt được an lạc hạnh phúc.
Và ta nguyện giải thoát tất cả,
Khỏi biển lớn luân hồi đau khổ."
17. Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Làm nơi con nương tựa tối thượng.
Thưa bậc Đạo Sư, hãy cứu con,
Như Ngài đã cứu độ thế gian.
18. Chắc chắn, do nghiệp tạo quá khứ,
Nên con sinh trong gia đình nghèo.
Xin Ngài hãy cứu độ cho con,
Kẻ đang chìm đắm đau khổ này.
19. Bậc Thế Tôn là bậc giải thoát,
Khỏi khổ đau sanh già bệnh chết.
Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Bậc đầy đủ công đức vô thượng.
20. Con nguyện rằng sẽ không bao giờ,
Tạo bất kỳ nghiệp ác nào nữa.
Bởi vì chính con đã cảm nhận,
Những hoàn cảnh đau khổ thế này.
21. Xin Ngài hãy khởi lòng bi mẫn,
Lòng từ bi tất cả chúng sinh.
Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Làm nơi nương tựa thật tối thượng.
22. Bất cứ chúng sinh cõi Diêm Phù,
Nếu thọ trì danh hiệu của Ngài,
Trong tương lai thời kỳ sau này,
Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn,
Vào thời kỳ, giáo pháp suy tàn,
Tất cả ác nghiệp đã từng tạo ra,
Sẽ nhanh chóng tiêu trừ hoàn toàn.
Khi ấy, cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā, sau khi thưa lên những bài kệ với đức Thế Tôn, lại một lần nữa quay vô nhà.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn gọi cô gái Na-ga-ra-va-lam-bi-kā, với âm thanh vang vọng như tiếng chim viṅ-ka-ra, và nói như sau:
"Hãy quay lại, này cô gái. Ta nhớ lại nhân duyên từ tiền kiếp của cô, và Ta sẽ tuyên thuyết điều ấy."
Khi ấy, cô gái ấy quay trở lại và thưa rằng:
23. Xin hãy tuyên thuyết ngay bây giờ,
Thưa bậc Đạo Sư của thế gian,
Bất cứ ác nghiệp nào, dù lớn,
Hay nhỏ bé, con tạo từ trước,
Chắc chắn, con từng tạo nghiệp ác,
Nghiệp con tạo vô cùng nghiêm trọng.
Do đó, con nay đã sinh ra,
Trong một gia đình rất nghèo khổ.
24. Ngài là bậc Đạo Sư dẫn dắt,
Người dẫn đường khắp thế gian này.
Xin Ngài hãy giải thoát con,
Thoát khỏi thân phận nữ nhân này.
Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Làm nơi nương tựa, cứu tối thượng.
25. Con sẽ mãi mãi luôn ghi nhớ,
Ân đức này của bậc Đạo Sư.
Xin Ngài hãy giảng dạy cho con,
Mắt pháp thanh tịnh thật trong sáng.
Để không ai nghe được pháp này,
Mà còn phải đọa vào ác đạo.
26. Xin Ngài hãy thanh tịnh nghiệp xấu,
Mà con đã tạo trong quá khứ.
Xin Ngài hãy làm nơi che chở,
Làm nơi con nương tựa tối thượng.
27. Thưa Bậc Đạo Sư của thế gian,
Thưa bậc có trí tuệ siêu việt,
Con kính lễ Ngài, nơi nương tựa,
Với lòng thành kính con chắp tay.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với cô gái ấy:
Này cô gái, trong quá khứ xa xưa, vào thời gian quá khứ vô cùng lâu xa, trong vô lượng vô biên asaṃkhye kiếp không thể tính đếm, có một đức Như Lai tên là Rat-na-śi-khī - Đỉnh Cao Trí Tuệ Báu Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và giới hạnh, bậc Thiện Thệ, bậc thầy vô thượng hiểu rõ thấu suốt thế gian, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, bậc Giác Ngộ Toàn Giác, bậc Thế Tôn.
Vào thời điểm ấy, có một kinh đô tên là Pad-mā-va-tī - Liên Hoa Thành. Vào thời điểm ấy, trong kinh đô Pad-mā-va-tī, có một gia chủ tên là Pad-ma-pra-bha - Liên Hoa Quang.
Cô chính là con gái của gia chủ Pad-ma-pra-bha vào thời điểm ấy.
Vào thời kỳ đó, ở các thôn làng, thành phố, thị trấn và quốc độ, có một vị Tỳ Kheo A La Hán khất thực đi vào để nhận thức ăn cúng dường.
Khi vị ấy đến nhà cô, lúc đó, này cô gái, cô đã cầm lấy thức ăn cúng dường, bước ra khỏi nhà, nhưng rồi lại quay vào.
Và cô đã nói rằng: 'Ta sẽ không cúng dường thức ăn cho một kẻ đầu trọc và vô phước.'
Do tích lũy nghiệp ấy, này cô gái, cô đã phải chịu đựng vô số khổ đau trong những gia đình nghèo khổ lặp đi lặp lại suốt mười hai ngàn kiếp. Do cô đã không nhìn nhận đúng về hình tướng và phẩm hạnh của vị Tỳ Kheo ấy.
Nhưng nhờ vào một thiện căn mà cô đã tạo hôm nay, này cô gái, cô sẽ đạt được thọ ký Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác.
Này cô gái, trong tương lai, sau vô số kiếp không thể nghĩ bàn, cô sẽ trở thành một đức Phật có danh hiệu là Na-ga-ra-dhva-ja - Thành Tràng Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và giới hạnh, bậc Thiện Thệ, bậc thầy vô thượng hiểu rõ thấu suốt thế gian, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, bậc Giác Ngộ Toàn Giác, bậc Thế Tôn xuất hiện trong thế gian này.
Lúc bấy giờ, cô gái ấy nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, cõi Phật của con khi con thành Phật sẽ như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
'Cõi Phật ấy sẽ có tên là Tích Lũy Vô Lượng Công Đức (Aparimitaguṇasaṃcayā).
Cõi ấy sẽ giống như Thế giới Cực Lạc su-khā-va-tī vậy.
Trong cõi ấy, sẽ có vô số Bồ Tát, những bậc được sinh bằng hóa thân thanh tịnh, ngồi trong tư thế kiết già.
Cõi Phật ấy sẽ là như thế.
Lúc ấy, cô gái ấy trở nên hoan hỷ, phấn khởi, tâm hồn mãn nguyện, vui mừng, tràn đầy niềm vui và sự thanh thản, và bắt đầu quay vô nhà.
Khi ấy, đức Thế Tôn liền nói với cô gái ấy:
Này cô gái, cô sẽ lìa đời vào ngày thứ bảy do bị đói lâu ngày. Sau khi lìa đời, ở phương Đông, trong xứ Ma Kiệt Đà, có một vị quốc vương tên là A-ji-ta-se-na - Vô Thắng Quân. Vị quốc vương A-ji-ta-se-na đó có một hậu cung gồm một ngàn cung nữ, vào ngày thứ bảy sẽ có một vị hậu phi thụ thai. Ngay lúc đó, cô sẽ tái sinh làm con trai của quốc vương A-ji-ta-se-na.
Đây sẽ là lần tái sinh cuối cùng của cô.
Khi ấy, đức Thế Tôn ra khỏ đại thành Xá Vệ qua cổng thành phía Tây và đi đến tinh xá Kỳ Viên.
Lúc ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa nhìn thấy từ xa đức Thế Tôn đang đi đến, liền đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh ba vòng, rồi thưa lên bằng những bài kệ:
28. Ngài có thân sắc sáng vàng ròng,
Được trang nghiêm tướng hảo thù thắng.
Ngài đầy đủ ba hai tướng tốt,
Và với thân tướng rất trang nghiêm.
29. Khi nào mà Ngài đi khất thực,
Chính lúc ấy Ngài đang cứu độ,
Tất cả chúng sinh tại cõi này.
Ngài an lập tất cả chúng sinh,
Vào cảnh giới an lạc hạnh phúc.
30. Ngài thực hành sức mạnh lòng từ,
Vì tất cả chúng sinh thế gian.
Với sự cúng dường bữa ăn ấy,
Là tối thượng cho Thầy Thế Gian!
Chính nhờ đó, Ngài đã giải thoát,
Cho thế gian khỏi mọi sợ hãi.
31. Những Bồ Tát nào ở Diêm Phù,
Tất cả họ đều đang hiển thị,
Con đường của Ngài, thưa Thế Tôn.
32. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn,
Vào thời kỳ tương lai sau này,
Xin hãy gìn giữ kinh điển này,
Mà đức Phật Thế Tôn đã thuyết.
33. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn,
Vào thời kỳ tương lai sau này,
Vào thời điểm giáo pháp suy tàn,
Xin hãy gìn giữ giáo pháp này,
Là viên ngọc quý trong kinh điển.
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa, sau khi thuyết lên những bài kệ này, liền đi quanh đức Thế Tôn ba vòng, rồi đứng ở trước đức Phật.
Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Ā-nan-đa rằng:
'Này Ā-nan-đa, hãy đi đánh chuông báo hiệu, để các vị Thanh Văn cùng thọ dụng bữa ăn.'
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa thưa với đức Thế Tôn:
Thưa đức Thế Tôn, công đức thiện căn của âm thanh chuông này sẽ như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
Này Ā-nan-đa, Ta sẽ nói về công đức thiện căn của âm thanh chuông này.
Này Ā-nan-đa, bất kỳ ai nghe được âm thanh của chuông này, thì mọi nghiệp ác vô gián của họ sẽ bị tiêu trừ.
Họ sẽ trở thành những bậc không còn thoái chuyển và sẽ nhanh chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trưởng lão Ā-nan-đa thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, cách nào để những chúng sinh ấy gieo trồng thiện căn?
Đức Thế Tôn đáp:
Này Ā-nan-đa, vào thời kỳ sau này, trong thời kỳ suy tàn của giáo pháp, sau khi Ta nhập Niết-bàn, trong thời điểm mà chánh pháp dần biến mất, bất kỳ chúng sinh nào ở trong các thôn làng, thành phố, thị trấn, quốc độ, vương quốc, kinh đô, hay ở những nơi ẩn cư trong rừng, nếu họ nghe được âm thanh của tiếng chuông và niệm danh hiệu 'Nam-mô Bud-dhā-ya' - Nam mô Phật - Con hoàn toàn quy mạng đức Phật, thì tất cả những nghiệp ác vô gián của họ sẽ bị tiêu trừ.
Này Ā-nan-đa, đây là những thiện căn của âm thanh chuông này.
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa, với tâm tĩnh lặng và thanh thản, liền đánh chuông báo hiệu.
Lúc ấy, nhờ vào âm thanh của tiếng chuông ấy, tất cả các vị Đại Thanh Văn đều tụ hội. Khi các vị ấy đã an tọa vào chỗ ngồi, họ bắt đầu thọ dụng bữa ăn khất thực.
Lúc ấy, giữa hội chúng các vị Thanh Văn, có một vị Đại Thanh Văn tên là Nan-di-mi-tra - Người Bạn Hoan Hỷ, đã có mặt và ngồi vào chỗ.
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo vị Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Này Nan-đi-mi-tra, Đại Thanh Văn, hãy đi về phương Đông, đến xứ Ma Kiệt Đà, phụng sự như một thiện hữu tri thức cho quốc vương A-ji-ta-se-na.
Lúc ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con không thể đến vùng đất ấy. Chúng sinh nơi đó rất khó tiếp cận. Họ có thể giết con và lấy đi mạng sống của con.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với vị Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Những chúng sinh ấy không thể nào làm lay động dù chỉ một sợi lông của ông, huống gì có thể lấy đi sinh mạng của ông.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra, vào lúc sáng sớm, khoác lên mình y phục sắc vàng, rồi lên đường đến kinh đô của quốc vương A-ji-ta-se-na ở xứ Ma Kiệt Đà, thuộc phương Đông.
Lúc ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, từ trên lầu cao nhìn thấy Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra, lòng ông liền trở nên hoan hỷ, phấn khởi, tâm hồn mãn nguyện, vui mừng, tràn đầy niềm vui và sự thanh thản.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na sai một vị quan đại thần đi triệu thỉnh vị Tỳ Kheo ấy.
Lúc bấy giờ, vị đại thần ấy đi đến chỗ của Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra.
Lúc ấy, vị đại thần ấy nói với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Này bậc Đại Thanh Văn, hãy đến đây, quốc vương có lệnh triệu thỉnh Ngài.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra nói với vị đại thần:
Quốc vương cần ta để làm gì? Quốc vương sẽ làm gì với ta?
Khi ấy, vị đại thần ấy quay về chỗ quốc vương A-ji-ta-se-na. Ông ấy tâu với quốc vương A-ji-ta-se-na rằng:
"Vị Tỳ Kheo ấy không đến bên bệ hạ."
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na sai đến năm trăm người tuỳ tùng để đón rước. Nhưng vị Tỳ Kheo ấy vẫn không đến bên quốc vương A-ji-ta-se-na.
Rồi khi ấy, quốc vương ấy tự mình đi đến chỗ Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra. Sau khi đến gần, vua chắp tay và nói rằng:
“Thưa Tỳ Kheo tôn kính, hãy đến đây và vào cung điện của ta.”
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, nắm lấy tay phải của vị Tỳ Kheo ấy, rồi cùng đi vào cung điện của mình.
Lúc bấy giờ, quốc vương A-ji-ta-se-na dâng tặng một tòa sư tử cho Tỳ Kheo Nan-đi-mi-tra. Sau đó, quốc vương A-ji-ta-se-na, ngồi xuống trên một chiếc bảo tọa, rồi nói với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra như sau:
Này Tỳ Kheo, ngài đang đi đâu? Nguyên nhân và duyên cớ là gì?
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra nói với quốc vương A-ji-ta-se-na rằng:
Những ai đã xuất gia làm Tỳ Kheo, tất cả đều duy trì mạng sống bằng thức ăn khất thực và thọ dụng chúng.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na nói với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Xin mời Ngài thọ nhận thức ăn khất thực tại nhà của ta. Suốt đời này, ta sẽ cúng dường thức ăn khất thực cho ngài.
Này Tỳ Kheo, nếu Ngài có điều gì cần đến thân thể của ta, thì ta cũng sẵn lòng hiến dâng chính thịt của ta.
Lúc ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra thưa với quốc vương A-ji-ta-se-na bằng những bài kệ:
34. Ta thọ nhận bữa ăn,
Mà bệ hạ dâng cúng.
Là những món ăn ngon,
Và thức uống tuyệt hảo.
Nhờ vậy, bệ hạ sẽ,
Thoát khỏi mọi ô nhiễm.
35. Bệ hạ được thân người,
Điều vô cùng khó gặp.
Lại rất khó gặp được,
Giáo pháp bậc Đạo Sư.
Lòng tin tịnh tối thượng,
Cũng vô cùng khó được.
36. Những ai đã xuất gia,
Ở trong giáo pháp này,
Và trở thành Tỳ Kheo,
Họ đã gặp được điều,
Thật vô cùng hiếm có,
Đó chính là giáo pháp,
Của các bậc Đạo Sư.
Thật rất khó gặp được,
Bậc Thiện Thệ tối thượng,
Để cung kính chiêm bái.
37. Con xin đảnh lễ Ngài,
Quy mạng bậc Giác Ngộ,
Phật bậc Đại Oai Đức.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Kính bậc Đại Ẩn Sĩ,
Bậc Đại Thánh Tĩnh Lặng,
Bậc hiện thân chánh pháp.
38. Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc Thánh Trí Tối Thượng,
Thấu suốt mọi phiền não.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Giải thoát mọi chúng sinh,
Khỏi già suy bệnh chết.
39. Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc Thánh Trí Tối Thượng,
Bậc chỉ dạy con đường.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc hiện đường chân chánh.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc hiển bày con đường,
Đạo Giác Ngộ Tỉnh Thức.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra đã tán thán công đức của đức Thế Tôn trước quốc vương A-ji-ta-se-na, rồi im lặng.
Lúc ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na liền thưa với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra bằng những bài kệ:
40. Thật khó gặp được một Tỳ Kheo,
Và cũng thật khó được chiêm ngưỡng.
Thật là điều vô cùng khó gặp,
Để chiêm ngưỡng một bậc như vậy.
41. Những ai bố thí chúng Tỳ Kheo,
Thì sẽ không bị loài Dạ Xoa,
Hay bị các loài quỷ làm hại.
Không bị quấy nhiễu bởi ngạ quỷ,
Quỷ thần hung ác hay rắn lớn.
Họ không bao giờ gặp chướng ngại.
42. Những ai bố thí chúng Tỳ Kheo,
Thì chắc chắn đạt được thân người,
Đây là điều vô cùng khó gặp.
Ai có thể chiêm ngưỡng Tỳ Kheo,
Một vị tu hành thật chân chánh,
Đó là điều hiếm hoi khó gặp,
Điều ấy thật khó gặp ngay cả,
Hàng trăm ngàn kiếp không nghĩ bàn.
43. Ai gìn giữ danh hiệu Thế Tôn,
Bậc Hiểu Rõ Thấu Suốt Thế Gian,
Thì sẽ tích lũy nhiều công đức,
Qua hàng tỷ kiếp không nghĩ bàn,
Người ấy không còn đọa đường ác.
44. Ai được chiêm bái vua Tỳ Kheo,
Người ấy chắc không đọa cảnh khổ.
Ai được chiêm bái vua Tỳ Kheo,
Ngài ấy chính là thiện tri thức.
45. Ngài là bậc chỉ lối cho con,
Vì Ngài đã đến nhận cúng dường,
Là bữa ăn khất thực từ con.
46. Ai cúng dường thức ăn khất thực,
Thì sẽ thoát khỏi mọi bệnh tật,
Già nua và khổ đau luân hồi,
Họ sẽ luôn luôn được giải thoát,
Khỏi mọi phiền não, các ưu phiền.
Là kết quả dành cho những ai,
Dâng cúng dường bữa ăn khất thực.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na đã tán thán công đức của Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra, rồi im lặng.
Lúc ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra nói với quốc vương A-ji-ta-se-na rằng:
Xin tùy hỷ, thưa đại vương, tôi sẽ thọ dụng bữa ăn khất thực tại cung điện của bệ hạ.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na đã dâng cúng lên Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra các loại thức ăn, loại mềm và loại cứng.
Sau khi thọ thực xong, khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra nói với quốc vương A-ji-ta-se-na rằng:
Thưa đại vương, ở vùng đất này có khu vườn nào chăng?
Quốc vương đáp:
Có chứ, thưa Đại Thanh Văn, con có một khu vườn rất đẹp và vô cùng rực rỡ.
Nan-đi-mi-tra nói:
Thưa đại vương, tôi muốn đi đến khu vườn ấy để quan sát.
Quốc vương đáp:
Hãy đi đi, thưa Ngài Nan-đi-mi-tra, hãy quan sát khu vườn ấy.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra đi đến khu vườn của quốc vương A-ji-ta-se-na.
Lúc ấy, trong khu vườn ấy, tất cả các vẻ đẹp của khu vườn đều hiện hữu. Những ao sen vào mùa hạ đều tràn đầy nước mát. Những ao sen vào mùa mưa đều không quá nóng cũng không quá lạnh. Những ao sen ấy được lát bằng bậc thềm dát vàng, trông thật tuyệt mỹ.
Những phẩm chất tuyệt vời của các loại cây cối đều hiện hữu. Có đủ các loài hoa như hoa Thắng Ý A-dhi-muk-ta-ka, hoa sứ vàng Cam-pa-ka, hoa Cung Hành Dhā-nuṣ-kā-ri-kā, hoa Vô Ưu A-śo-ka, hoa Long Thọ Mu-ci-lin-đa, hoa Đào Ấn Pā-ṭa-la, hoa Thiện Tâm Su-ma-nā, hoa Hương Quý Su-gan-dhi-ka, và hoa Vạn Tuế Vār-ṣi-kā.
Các loài chim thuộc chủng loại phi nhân như vẹt xanh, sáo, thiên nga đỏ, công, và cuốc, tất cả đều cất lên những tiếng hót đủ loại.
Lúc ấy, ngay trong khu vườn ấy, xuất hiện những loài chim có sắc vàng rực rỡ, mỏ vàng, cánh vàng, và chân vàng. Tất cả chúng đều phát ra âm thanh tán thán danh hiệu đức Phật.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra đi đến hoàng cung của quốc vương A-ji-ta-se-na. Lúc ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na hỏi Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Thưa Đại Thanh Văn, ngài đã trở về rồi chăng? Ngài đã thấy khu vườn đó chứ?
Nan-đi-mi-tra đáp :
Tôi đã thấy khu vườn ấy, quả thực là tuyệt đẹp.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra liền thưa với quốc vương A-ji-ta-se-na bằng những bài kệ:
47. Những gì được thọ hưởng,
Tại cõi Diêm Phù Đề,
Có các loài hoa như,
A-dhi-muk-ta-ka,
Và hoa Cam-pa-ka,
Dhā-nuṣ-kā-ri-kā,
Với hoa A-śo-ka,
Hoa Mu-ci-lin-đa,
Và hoa Pā-ṭa-la,
Hoa Su-gan-dhi-kā,
Cùng hoa Su-ma-nā,
Và hoa Vār-ṣi-kā.
48. Bên bờ sông của vùng,
Tại Pa-ri-yā-trā,
Là nơi được kiến tạo,
Những loài chim sắc vàng,
Thường luôn luôn xuất hiện,
Chúng chỉ dẫn con đường,
Đến giác ngộ tối thượng.
Chúng có tiếng vi diệu,
Hình sắc chúng dễ thương,
Cất tiếng hót ngọt ngào.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra sau khi thuyết lên những bài kệ trước quốc vương A-ji-ta-se-na, liền im lặng.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na truyền đánh trống lệnh.
Lúc ấy, khi nghe tiếng trống lệnh, các vị đại thần liền tụ hội và hỏi quốc vương A-ji-ta-se-na rằng:
Thưa đại vương, trống lệnh này được đánh lên vì việc gì?
Khi ấy, quốc vương ấy nói rằng: 'Hãy chuẩn bị voi chiến và xe ngựa. Ta sẽ đi đến khu vườn để vui chơi.'
Khi ấy, có mười ngàn quần thần, sau khi nghe lệnh, liền nhanh chóng chuẩn bị xong voi chiến và xe ngựa.
Khi ấy, chỉ trong chốc lát, quốc vương A-ji-ta-se-na đã đi đến khu vườn ấy. Và Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra ấy, cũng đi đến chỗ quốc vương A-ji-ta-se-na và nói rằng:
Thưa đại vương, tại vùng đất này, xin bệ hạ hãy xây dựng cho tôi một am thất, nơi mà tôi có thể ngồi và thọ nhận thức ăn khất thực từ nhà của bệ hạ.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na nói với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Am thất của Ngài nên được xây dựng như thế nào?
Nan-đi-mi-tra đáp:
'Thưa đại vương, hãy xây dựng am thất tùy theo mức độ phát khởi tâm rộng lớn và lòng tin thanh tịnh của bệ hạ.'
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na liền bảo vị đại thần cao cấp nhất: 'Hãy xây dựng am thất ngay tại vùng đất này.'
Khi ấy, vị đại thần cao cấp nhất thưa với quốc vương:
'Thưa đại vương, am thất cần phải xây dựng như thế nào?'
Quốc vương A-ji-ta-se-na liền nói rằng:
Hãy xây dựng am thất có chiều dài và rộng là 30 đaṇ-đa - 60 mét, và chiều cao sáu đaṇ-đa - 12 mét, và trang trí với ngọc ma-ni và ngọc trai.
Khi ấy, vị đại thần ấy bắt đầu xây dựng am thất. Sau khi đã hoàn thành am thất, ông ấy đi đến chỗ quốc vương A-ji-ta-se-na. Ông ấy thưa với quốc vương A-ji-ta-se-na như sau:
'Thưa đại vương, am thất đã được hoàn thành đúng như lệnh của bệ hạ.'
Quốc vương nói:
'Tại khu đất ấy, hãy xây dựng một hành lang kinh hành, dài 4 gā-vu-ta - 8 kilomet, và rộng 2 gā-vu-ta - 4 kilomet.'
Khi ấy, vị đại thần ấy, sau khi hoàn thành hành lang kinh hành, đi đến chỗ quốc vương A-ji-ta-se-na. Ông ấy liền thưa với quốc vương bằng những bài kệ:
49. Thần đã xây dựng xong,
Một hành lang kinh hành,
Thật vô cùng đẹp đẽ,
Như lệnh của bệ hạ,
Điều đã lệnh từ trước.
50. Nơi này giúp giải thoát,
Chúng sinh khỏi các nghiệp,
Nghiệp thiện và bất thiện.
Nó mang lại giải thoát,
Cho tất cả chúng sinh.
51. Ôi, thật là tốt lành,
Bệ hạ đã lập nguyện.
Nguyện này sẽ cứu độ,
Cả toàn thể thế gian,
Và kể cả chư thiên.
52. Lời nguyện bệ hạ lập,
Nó thật là cao quý,
Giúp hiển bày giáo pháp,
Trở thành người truyền pháp,
Dạy pháp cho chúng thần,
Sau khi thần ngồi xuống,
Ngay ở trong am thất,
Trên hành lang kinh hành.
53. Những gì bệ hạ lệnh,
Nay đã được thực hiện.
Hành lang kinh hành ấy,
Nay đã được làm xong,
Thật vô cùng đẹp đẽ.
Mặt đất ấy cũng được,
Trang trí đá ngọc quý.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na đi đến kinh đô của mình. Lúc đó, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra quay trở về và an tọa ngay trong am thất ấy, nhập vào Định sâu của một vị chúng sanh tỉnh thức có tên là 'Vi-ki-ra-ṇa' - Phân tán khắp nơi.
Ngài nhập định với phần thân thể phân tán riêng biệt: với tóc, với mắt, với răng, với cổ, với tay, với tim, với bụng, với đùi, với cẳng chân, và với bàn chân.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, sau bảy ngày trôi qua, không nhìn thấy vị Tỳ Kheo ấy. Lúc đó, quốc vương nói với thái tử trưởng rằng:
Hãy đến đây, này vương tử, ta muốn đến am thất ấy. Ta sẽ đi đến nơi vị Tỳ Kheo ấy đang ở.
Khi ấy, quốc vương ấy, cùng với thái tử, đã đi đến am thất ấy. Lúc bấy giờ, quốc vương A-ji-ta-se-na, nhìn thấy thân thể của vị Tỳ Kheo ấy đã bị phân tán thành nhiều mảnh, liền sinh lòng nghi hoặc. Lông tóc dựng đứng vì kinh hãi, ông ta xé nát y phục, than khóc, nức nở, cổ họng nghẹn ngào nước mắt, rồi nói với con trai mình:
Này con, hãy mang đến đây một thanh kiếm sắc bén, ta sẽ tự kết liễu sinh mạng mình.
Khi ấy, thái tử, chắp tay cung kính, rồi thưa với quốc vương bằng những bài kệ:
54. Ôi bệ hạ, xin đừng để tâm,
Lòng dày vò, ngập tràn đau buồn.
Xin đừng cảm nhận, nỗi đau đớn,
Thống thiết khổ sở như thế này.
55. Nếu tự kết liễu sinh mạng này,
Phụ vương sẽ rơi vào địa ngục,
Phụ vương sẽ phải đọa địa ngục,
Rau-ra-va âm thanh kinh hoàng,
Nơi đau khổ vô cùng khốc liệt.
56. Ngài ấy chính là bậc xứng đáng,
Được cúng dường trong thế gian này,
Là bậc cứu độ cho những ai,
Đang chịu cảnh già yếu bệnh tật.
57. Ngài ấy không hề bị sát hại,
Bởi Dạ Xoa, không bởi quỷ thần,
Cũng không bởi do loài La Sát.
Ngài ấy chính là một Bồ Tát,
Trong thế gian, là bậc cứu độ,
Cho những ai chịu cảnh già yếu,
Và bệnh tật đau khổ bám lấy.
58. Ngài ấy, bậc xứng đáng cúng dường,
Trong thế gian, là bậc cứu độ,
Cho những ai chịu cảnh già yếu,
Và bệnh tật đau khổ bủa vây.
59. Khó gặp được cơ hội chiêm bái,
Ngài ấy chính là bậc hiển bày,
Và làm rõ con đường giác ngộ.
Ngài ấy là một thiện tri thức,
Đã đến đây chỉ vì phụ vương.
60. Ngài ấy, bậc xứng đáng cúng dường,
Trong thế gian, mang lại an lạc,
Hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.
Ngài ấy chính là bậc Toàn Trí,
Đã thành tựu các Ba-la-mật,
Được bậc Thế Gian Giải phái đến.
61. Ngài ấy có tinh tấn kiên cố,
Sức mạnh kiên định, hiểu thế gian,
Bậc Đại Ẩn Sĩ, ma-har-ṣi.
Ai trì niệm danh hiệu Ngài ấy,
Người đó không rơi vào đường ác.
Họ sẽ không đọa vào cõi ác,
Mà sẽ sinh thẳng lên cõi trời.
Khi ấy, thái tử ấy, sau khi thuyết lên những bài kệ cho phụ vương, liền im lặng.
Lúc ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na nói với thái tử của mình rằng:
Này thái tử, làm sao con biết được rằng vị Tỳ Kheo này đã nhập định sâu sa-mā-dhi?
Khi ấy, thái tử ấy liền nói rằng:
Xin phụ vương hãy xem, vị Tỳ Kheo này đã nhập vào Định sâu của Bồ Tát. Ngài đã giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả phiền não, đã vượt qua biển sinh tử luân hồi. Và vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, Ngài đang chỉ bày con đường thù thắng.
Lúc ấy, thái tử ấy nói với quốc vương:
Thưa phụ vương, hãy đến đây, chúng ta hãy cùng đi đến hành lang kinh hành.
Khi ấy, quốc vương ấy cùng với thái tử, cùng với hàng trăm vương tử trong vương tộc, đã đi đến hành lang kinh hành ấy.
Lúc bấy giờ, vị Tỳ Kheo ấy, từ định sâu sa-ma-dhi ấy xuất định, liền nói với quốc vương A-ji-ta-se-na:
Thưa đại vương, hãy đến đây, bệ hạ đang làm gì ở nơi này?
Khi ấy, quốc vương, sau khi nhìn thấy vị Tỳ Kheo ấy, liền trao lại vương miện cho thái tử, và nói rằng:
Vương quốc này thuộc về con. Hãy cai trị theo chánh pháp, đừng theo phi pháp.
Thái tử nói:
Con đã thực hiện vô số công việc của vương quốc, nhưng chưa bao giờ con cảm thấy thỏa mãn. Phụ vương, vương quốc này vẫn thuộc về người.
Con không có việc gì với vương quyền, cũng không quan tâm đến sự hưởng thụ hay quyền uy tối thượng.
Phụ vương, vương quốc này vẫn thuộc về người. Xin hãy cai trị nó theo chánh pháp, đừng theo phi pháp.
Khi ấy, quốc vương đi đến chỗ vị Tỳ Kheo ấy, chắp tay cung kính và nói rằng:
62. Thật khó thể gặp được,
Đại Ẩn Sĩ như Ngài.
Con chắp tay cung kính,
Đối diện bậc Đạo Sư.
Nay được chiêm bái Ngài,
Đưa chúng sinh giải thoát,
Thật vô cùng hy hữu.
Điều này khó gặp được,
Dù tích lũy thiện nghiệp,
Trong hàng trăm ngàn kiếp,
Thật không thể nghĩ bàn.
63. Ai có thể dâng hiến,
Cơ hội chiêm bái Ngài,
Người ấy chắc chắn sẽ,
Được giải thoát hoàn toàn,
Ở trong vô số kiếp.
Người ấy không bao giờ,
Bị rơi vào đường ác,
Bất kỳ ai dù chỉ,
Trong khoảnh khắc nghe được,
Tên gọi danh hiệu Ngài.
Quốc vương lại nói tiếp:
64. Hãy ngồi xe trang hoàng ngọc quý,
Con sẽ về kinh đô của mình.
Con cúng Ngài bữa ăn thịnh soạn.
Con cúng Ngài y quý Kā-śī.
Những lụa mịn được dệt tinh tế,
Nay con dâng Ngài tấm y này.
Khi ấy, vị Tỳ Kheo ấy, sau khi nhận lấy và ngồi lên cỗ xe được trang trí bằng ngọc quý, đã đi đến kinh đô. Ở đấy, Ngài đã được cúng dường với bữa ăn thịnh soạn.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra liền thưa với quốc vương A-ji-ta-se-na bằng những bài kệ:
65. Ta thọ nhận bữa ăn thịnh soạn.
Đó là những món ăn tinh khiết,
Hương vị tuyệt hảo và tốt lành.
Những ai bố thí chúng Tỳ Kheo,
Họ sớm đến đạo tràng Giác Ngộ.
66. Thật khó gặp hiếm có khó được,
Cơ hội chiêm bái bậc Đạo Sư.
Nhưng không lâu, người ấy sẽ được,
Đến cõi Phật thù thắng trang nghiêm,
Của Phật A Di Đà Như Lai,
Người ấy sẽ nhanh chóng vãng sinh,
Đến Cực Lạc su-khā-va-tī.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra, sau khi thuyết lên những bài kệ cho quốc vương A-ji-ta-se-na, liền im lặng.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na truyền đánh trống lệnh.
Khi ấy, khi nghe tiếng trống lệnh ấy, hàng triệu đại thần liền thưa với quốc vương:
Thưa đại vương, vì việc gì mà trống lệnh được đánh lên?
Quốc vương đáp:
Vào ngày thứ bảy, hãy chuẩn bị sẵn sàng voi chiến và xe ngựa. Vào ngày thứ bảy ấy, ta sẽ đi đến khu Tịnh xá Kỳ Viên je-ta-va-na, để được chiêm bái, đảnh lễ, thỉnh cầu được phụng sự, và nghe pháp từ đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Khi ấy, vào ngày thứ bảy, hàng triệu đại thần liền thưa với quốc vương A-ji-ta-se-na:
Thưa đại vương, chúng thần đã chuẩn bị xong voi chiến và xe ngựa.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, sau khi mọi người đã lên voi chiến và xe ngựa, liền để Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra cùng ngồi trên cỗ xe bằng ngọc quý, rồi cùng đi đến tinh xá Kỳ Viên.
Lúc ấy, đức Thế Tôn, khi nhìn thấy quốc vương A-ji-ta-se-na đang từ xa đi đến, liền gọi tất cả các vị Thanh Văn:
Tất cả các ông hãy hiển bày các loại thần thông biến hóa khác nhau.
Khi ấy, tất cả các vị Đại Thanh Văn liền nhập vào Định sâu của Bồ Tát có tên là 'Jvā-lā-mā-la' (Hoả Diệm Quang).
Khi ấy, quốc vương, từ xa, nhìn thấy cảnh tượng Hoả Diệm Quang Jvā-lā-mā-la, liền nói với Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra rằng:
Vì sao con nhìn thấy ngọn núi này cháy rực với những ngọn lửa hừng hực?
Nan-đi-mi-tra đáp rằng:
Tại đây, đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang trụ thế, đang duy trì giáo pháp, và đang thuyết giảng Chánh Pháp.
Có các vị Bồ Tát tại đó đã nhập vào Định sâu của Bồ Tát có tên là Hoả Diệm Quang 'Jvā-lā-mā-la'.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, sau khi xuống khỏi voi chiến và xe ngựa, cùng với một ngàn vương tử, đi đến chỗ đức Thế Tôn.
Lúc ấy, đức Thế Tôn, với thân sắc vàng ròng và hào quang chiếu sáng một tầm tay, đang đi kinh hành.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, sau khi đến gần và nhìn thấy sắc tướng cao đẹp của đức Thế Tôn, liền bất tỉnh và ngã xuống đất.
Lúc ấy, đức Thế Tôn, duỗi cánh tay sắc vàng, nâng đỡ quốc vương ấy đứng dậy.
Hãy đứng dậy, thưa đại vương, vì sao Ngài lại ngã quỵ?
Quốc vương đáp:
67. Trải qua số kiếp không nghĩ bàn,
Trăm tỷ tái sinh không nghĩ bàn.
Chưa bao giờ con từng thấy được,
Với một cảnh tượng như thế này.
Ngài là bậc Hiểu Thấu Thế Gian,
Bậc xứng đáng cúng dường tối thượng.
68. Ngài là bậc Thầy Lớn Thế Gian,
Bậc giải thoát khỏi già bệnh chết.
Thân Ngài có ánh sáng vàng ròng,
Đầy đủ các tướng hảo thù thắng.
Bậc Đại Ẩn Sĩ, Đại Mu-ni,
Ngài đầy đủ ba hai tướng tốt.
69. Người nào đã từng chiêm bái Ngài,
Thì không bao giờ đọa cõi ác.
Ai đã được chiêm bái sắc tướng,
Của bậc Hiểu Thấu Suốt Thế Gian,
Con nay cúi đầu đảnh lễ Ngài,
Bậc Thế Gian Giải, Bậc Điều Ngự.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, chắp tay cung kính, liền thưa với đức Thế Tôn:
Thưa đức Thế Tôn, con sẽ xuất gia trong giáo pháp của Ngài.
Khi ấy, đức Thế Tôn hoan hỷ, phấn khởi, tâm vui vẻ, vui mừng, tràn đầy hỷ lạc và sự thanh thản, và tự nghĩ rằng:
Những ai chưa từng có cơ hội thù thắng trong giáo pháp của ta, nay sẽ được lợi ích rộng lớn.
Ngài nói với quốc vương A-ji-ta-se-na:
Này đại vương, hãy trở về hoàng cung của ngài, đến ngày thứ bảy, ta sẽ đến.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na hoan hỷ, phấn khởi, tâm tràn đầy vui vẻ, vui mừng, tràn đầy hỷ lạc và sự thanh thản.
Sau khi đặt vị Tỳ Kheo là bậc Thiện Tri Thức ở phía trước, nhà vua quay trở về hoàng cung của mình. Ông triệu tập tất cả các đại thần và ra lệnh rằng:
Tất cả các thôn làng, thành phố, thị trấn, và quốc độ phải được dọn sạch đường sá. Mỗi nhà phải dựng lên những lá cờ. Mỗi nhà phải chuẩn bị các bình báu đầy đủ.
Khi ấy, tất cả các đại thần đã nhận lệnh.
Tất cả các thôn làng, thành phố, thị trấn, và quốc độ đã được quét dọn sạch sẽ, cờ phướn được dựng lên, và các bình báu đã được chuẩn bị đầy đủ.
Tại nơi quốc vương A-ji-ta-se-na cư trú có mười hai triệu lá cờ được dựng lên. Mười hai triệu bình báu đã được làm tràn đầy.
Đến ngày thứ bảy, đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, được vây quanh và dẫn đầu bởi các vị Đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ā-nan-đa, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử và các vị thánh đệ tử khác, đã đi đến kinh đô của quốc vương A-ji-ta-se-na.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, cầm lấy một giỏ hoa, đặt trước bậc Thiện Tri Thức, rồi rải hoa cúng dường lên đức Thế Tôn và thưa rằng:
Nhờ vào căn lành này, nguyện cho tất cả chúng sinh sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na đã chuẩn bị các tòa ngồi. Ông dâng lên đức Thế Tôn một tòa sư tử.
Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi an tọa trên tòa sư tử, đã thuyết pháp cho quốc vương A-ji-ta-se-na.
Lúc bấy giờ, quốc vương A-ji-ta-se-na dâng cúng cho đức Thế Tôn một bữa ăn thịnh soạn, gồm các món ăn mềm và món ăn cứng.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na trao thái tử trưởng cho đức Thế Tôn, và thưa đức Thế Tôn rằng:
"Xin Ngài hãy cho thái tử này xuất gia, sau đó, con cũng sẽ xuất gia."
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Ā-nan-đa rằng:
'Này Ā-nan-đa, hãy đi cho thái tử này xuất gia.'
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa đã làm lễ xuất gia cho thái tử ấy. Ngay khi vừa xuất gia, thái tử ấy liền chứng đắc quả vị A La Hán. Ông ấy liền thấy được tất cả cõi Phật.
Khi ấy, thái tử ấy, bay lên giữa hư không, rồi thưa với phụ vương bằng những bài kệ:
70. Thưa phụ vương, xin đừng trì hoãn.
Xin cha đừng để tâm bám chấp,
Vướng mắc vào bất cứ điều gì.
Ôi! Thật may mắn khi chiêm bái,
Đức Thế Tôn Thiện Thệ Toàn Giác.
71. Ôi! Đây quả thật là đại phước,
Khi được hưởng ân đức Như Lai.
Ôi! Đây quả thật là đại phước,
Khi con đạt được điều tối thượng.
Đó chính là phước báu xuất gia,
Mà đức Thiện Thệ đã tuyên thuyết.
72. Sự giải thoát khỏi khổ luân hồi,
Đã được đức Như Lai giảng dạy.
Xin phụ vương hãy xuất gia ngay,
Chớ có trì hoãn, thưa phụ vương.
Xin phụ vương đừng làm phiền lòng,
Bậc Đại Đạo Sư của thế gian.
73. Thân người thật đã khó có được,
Nay đã có cơ hội quý này.
Khó gặp được cơ hội chiêm bái,
Bậc Đạo Sư, Thầy của Thế Gian.
Ngay khi xuất gia, con đã được,
Quả vị cao quý, con đã chứng,
Là quả vị Tỉnh Thức Tối Thượng.
74. Sau khi nghe lời của thái tử,
Quốc vương đã không còn do dự.
Ngài liền xuất gia trong giáo pháp,
Của bậc Đạo Sư, Thầy Thế Gian.
Khi ấy, thái tử ấy, sau khi thuyết lên bài kệ khi đang ở giữa hư không, liền im lặng.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na, sau khi nghe lời thái tử, liền hoan hỷ, phấn khởi, tâm tràn đầy vui vẻ, vui mừng, tràn đầy hỷ lạc và sự thanh thản. Ông đã xây dựng một tinh xá để dâng lên đức Thế Tôn. Hàng triệu loại nhạc cụ đã được cúng dường.
Ngàn cung nữ trong hậu cung của ông đã ẩn mất đi mọi dấu vết của lòng ham muốn dục tính đối với người nam, chỉ còn giữ lại tướng nữ.
Khi ấy, quốc vương A-ji-ta-se-na đã xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn. Hàng triệu đại thần cũng xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn. Và một ngàn nam nhân trong hậu cung cũng xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn.
Sau khi cho quốc vương A-ji-ta-se-na xuất gia, đức Thế Tôn đã bắt đầu đi về tinh xá Kỳ Viên.
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa thưa với đức Thế Tôn rằng:
Quốc vương A-ji-ta-se-na này, đã từ bỏ vương quyền, xây dựng một tinh xá, rồi xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn. Nhờ công đức ấy, thiện căn của ông ấy sẽ ra sao?
Đức Thế Tôn đáp:
Lành thay, lành thay, này Ā-nan-đa, là điều ông đã hỏi.
Quốc vương A-ji-ta-se-na này đã xuất gia trong giáo pháp của ta. Trong tương lai, sau vô số kiếp không thể nghĩ bàn, ông ấy sẽ trở thành một đức Phật hiệu là A-ji-ta-pra-bha - Vô Thắng Quang Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian. Ông ấy sẽ đầy đủ trí tuệ và giới hạnh, bậc Thiện Thệ, bậc thầy vô thượng hiểu rõ thấu suốt thế gian, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, bậc Giác Ngộ Toàn Giác, bậc Thế Tôn.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Vị Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra này đã là một bậc Thiện Tri Thức của quốc vương. Vậy thiện căn của Ngài ấy sẽ ra sao?
Đức Thế Tôn nói:
Này Ā-nan-đa, vị Đại Thanh Văn Nan-đi-mi-tra này, vào chính thời điểm ấy, sẽ trở thành một đức Phật hiệu là Nan-đi-pra-bha - Hoan Hỷ Quang Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, cõi Phật của các đức Như Lai ấy sẽ như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
Cõi Phật ấy sẽ có tên là Tích Lũy Công Đức Vô Lượng (Aparimitaguṇasaṃcayā), nơi các đức Như Lai này sẽ xuất hiện.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, người nào trong thời kỳ sau này, truyền bá toàn bộ giáo pháp này, thì người ấy sẽ tích lũy công đức như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
Này Ā-nan-đa, khi ta đã trải qua hàng trăm triệu tỷ tỷ khổ hạnh khó làm và chứng được Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác, lúc đó, những chúng sinh ấy cũng sẽ hướng đến chứng được Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác.
Những ai dù chỉ nghe một bài kệ bốn câu trong bài giảng pháp này, thì những chúng sinh ấy sẽ không còn thoái chuyển khỏi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Những ai là pháp sư mà truyền bá bài giảng pháp này, thì họ sẽ tích lũy thiện căn như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
Này Ā-nan-đa, người ấy sẽ trở thành một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương cak-ra-var-tī, là bậc thống trị bốn châu thiên hạ.
Những ai truyền bá toàn bộ bài giảng pháp này một cách trọn vẹn, thì họ sẽ được giải thoát, hoàn toàn thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, khỏi những nỗi đau than khóc, u sầu, và mọi khổ não.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Những chúng sinh nào, trong thời kỳ sau này, mà khinh chê và không tin nhận bài giảng pháp này, thì họ sẽ có vận mệnh như thế nào? Ai sẽ là chỗ nương tựa của họ?
Đức Thế Tôn đáp:
Đủ rồi, đủ rồi, này Ā-nan-đa, đừng hỏi ta về quả báo nặng nề ấy nữa. Ta không thể diễn bày hết được. Ngoại trừ vô số chư Phật, không ai có thể nói hết được trọn vẹn.
A Nan thưa rằng: 'Xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng.'
Bậc Thiện Thệ, đức Thế Tôn nói rằng:
'Hãy lắng nghe, này Ā-nan-đa, ta sẽ nói sơ lược về quả báo của những ai phỉ báng Chánh Pháp.
Những người ấy sẽ phải chịu khổ đau trong vô số ngàn kiếp tại đại địa ngục Não Nhiệt Rau-ra-va, đại địa ngục Khốc Tiếu - Hāhāha vừa khóc vừa cười, đại địa ngục A-tỳ a-vī-ci Vô gián. Sau khi nghiệp địa ngục hết, người đó phải thọ thân trong các loài súc sinh, trong cõi Diêm Ma, và trong cảnh giới quỷ đói.
Nếu họ có cơ hội sinh lại làm người, thì sẽ bị lưỡi khô dài. Lưỡi của họ sẽ dài đến 12 Aṅ-gu-la (khoảng 21 centimet). Lưỡi thường khô rốc và đau rát như có 12 lưỡi cày cày xéo trên đó. Đây là quả báo dành cho những ai đã nói ra những lời phỉ báng giáo pháp.
Này các thiện nam tử, xin chớ bao giờ phỉ báng Chánh Pháp. Những ai phỉ báng Chánh Pháp, thì đây chính là quả báo của họ.
Ā-nan-đa thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Chánh Pháp bị phỉ báng?
Đức Thế Tôn nói:
Những chúng sinh nào, vào thời kỳ sau này, nếu họ chửi mắng, nói lời thô ác, khinh miệt, và vu khống các bậc trì giữ kinh điển và các pháp sư thuyết pháp, và nếu họ khởi tâm ác đối với các bậc pháp sư, thì do chính họ, Chánh Pháp sẽ bị phỉ báng.
Nếu có một chúng sinh nào giết hại toàn bộ, không chừa một chúng sinh nào trong ba ngàn đại thiên thế giới (một vũ trụ với 3000 tỷ thiên hà), thì tội báo của người ấy vẫn còn nhẹ hơn so với quả báo của người phỉ báng pháp sư thuyết pháp.
Cũng như vậy, nếu có ai chỉ khởi tâm ác đối với các bậc trì giữ kinh điển và các pháp sư thuyết pháp, thì tội báo của kẻ ấy sẽ còn nặng hơn vô số lần và sẽ tạo ra khối nghiệp bất thiện khổng lồ, hoàn toàn không có bất kỳ sự thánh thiện, tốt lành, trong sạch, dễ chịu nào trong chính họ.
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa, lại một lần nữa, liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
75. Hàng ngàn kinh điển đã được con,
Nghe trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Nhưng quả thật con chưa từng nghe,
Kinh nào như thế này trước đây.
76. Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn,
Là thời kỳ sau đầy nguy hiểm,
Con sẽ hoằng dương kinh điển này,
Và sẽ gìn giữ giáo pháp này.
77. Khi kinh quý này còn tồn tại,
Trong thời kỳ mạt pháp sau này,
Con sẽ bảo hộ cho những ai,
Thực hành kinh này thời kỳ đó,
Là thời kỳ đầy rẫy nguy hiểm.
Con sẽ không bao giờ phỉ báng,
Lời dạy thâm diệu này của Phật.
Khi ấy, Trưởng lão Ā-nan-đa, sau khi thuyết lên những bài kệ này trước đức Thế Tôn, liền im lặng.
Khi ấy, Đại Thanh Văn Ca Diếp liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
78. Ngài có thân sắc màu vàng ròng,
Đầy đủ tướng hảo rất thù thắng.
Đức Như Lai, Bậc Đại Chiến Thắng,
Mang đầy đủ ba hai tướng tốt.
79. Ngài đã tuyên thuyết kinh thâm diệu,
Diệu pháp sâu xa thật khó thấy,
Đã hiển bày Kinh điển tối thượng.
Trong thời kỳ mạt thế sau này,
Khi bậc Chiến Thắng nhập Niết-bàn,
Con nguyện gìn giữ pháp môn này,
Là bải giảng pháp thật vô thượng.
Khi ấy, Trưởng lão Śā-ra-dva-tī-pu-tra (Thuần Hiền Tử) liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
80. Xin đảnh lễ Ngài, bậc Toàn Giác,
Bậc Đại Oai Đức, đức Thế Tôn,
Kinh điển này, tối thượng hiển bày.
Sau khi Ngài, Đạo Sư thế gian,
Đã nhập Niết-bàn thật tĩnh lặng,
Những ai ghi chép Kinh điển này,
Là ghi chép Kinh điển tối thượng,
Người ấy sẽ không bao giờ bị,
Rơi vào cõi khổ, chịu cảnh khổ.
Ngược lại, người ấy sẽ nhanh chóng,
Sinh lên cõi trời được an lạc.
Khi ấy, Trưởng lão Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
81. Ngài là bậc đáng để biết ơn,
Bậc giải thoát vô số chúng sinh,
Khỏi nỗi sợ đọa vào cõi khổ.
82. Kinh điển này, sâu xa cao quý,
Như phẩm vật cúng dường chư Phật,
Đã được Ngài tuyên thuyết rõ ràng.
Sau khi Đạo Sư nhập Niết-bàn,
Con nguyện hoằng dương kinh điển này,
Vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Khi ấy, Phạm Thiên Sa-hāṃ-pa-ti - Chủ thế giới Ta Bà, liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
83. Con xin quy mạng đảnh lễ Ngài,
Bậc Toàn Giác, bậc Đại Oai Đức.
Kinh điển này vô cùng thù thắng,
Đã được Ngài tuyên thuyết rõ ràng.
Sau khi Đạo Sư nhập Niết-bàn,
Con nguyện hộ trì Kinh quý này.
Khi ấy, bốn vị Thiên Vương liền thưa với đức Thế Tôn bằng những bài kệ:
84. Ôi! Thật vi diệu Kinh tối thượng,
Sẽ được hiển bày như thế này,
Được dạy trong thời kỳ sau này,
Kinh quý này sẽ được truyền bá,
Được thấy trong thời kỳ sau này,
Con nguyện hộ trì Kinh quý này,
Của các Thiện Thệ, Thầy thế gian.
Con sẽ trì giữ Kinh quý này.
Con sẽ bảo hộ Kinh quý này.
Đức Thế Tôn, với tâm hoan hỷ, đã thuyết lên những lời này. Và toàn thể hội chúng đã hoan hỷ với lời dạy của đức Thế Tôn.
Đây là kết thúc của Kinh Đại Thừa có tên là 'Thọ ký cho A-ji-ta-se-na'.